Đôi nét về lịch sử đất nước Philippines

Vào thời hậu Marcos, tình trạng tham nhũng, sự bất ổn trong đời sống đất nước và hoạt động của nhóm nổi loạn cũng như những phong trào li khai Hồi giáo tiếp tục ngăn cản phát triển kinh tế của đất nước Philippines trong nhiều năm.

Manila thập niên 1960.

1. Khái quátNhững bằng chứng khảo cổ học và cổ sinh vật học cho thấy loài người hiện đại (homo sapiens) đã hiện diện ở Palawan khoảng 50.000 năm trước. Những dân cư đó được gọi là người Tabon. Ở Thời đại đồ sắt, những người dân thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo từ phía Nam Trung Quốc và Đài Loan đã đi qua những chiếc cầu lục địa tới định cư ở Philippines. Những nhà buôn người Trung Quốc đã tới đây vào thế kỷ thứ 8.

Ferdinand Magellan, người Bồ Đào Nha, đi thám hiểm cho các vị vua Tây Ban Nha, lần đầu đặt chân lên quần đảo năm 1521.

Ngày 27 tháng 4 năm 1565, Miguel López de Legazpi, một người chinh phục Tây Ban Nha, và 500 binh sĩ vũ trang tới Cebu và lập ra khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha trên quần đảo.

Các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo theo chân binh lính từ hòn đảo này sang hòn đảo khác, để tìm kiếm những con chiên thổ dân. Các thuỷ thủ Tây Ban Nha nhanh chóng lập ra các nhà thờ và pháo đài, trong khi vẫn tìm kiếm vàng và các loại gia vị. Công giáo La mã được đưa vào và được đa số dân đi theo. Những cuộc nổi dậy của các nhóm bộ tộc miền núi ở bắc Luzon và những vùng ven biển thỉnh thoảng diễn ra, vì những sự trừng phạt tàn ác, thuế má nặng nề và những hành động sai trái của người Tây Ban Nha. Những người Hồi giáo tiếp tục kháng chiến ở những hòn đảo phía nam Mindanao. Quân đội Tây Ban Nha chiến đấu chống những nhóm cướp biển Trung Quốc, và những lực lượng Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Đế quốc Anh, tất cả đều có quyền lợi ở Philippines.

Tân Tây Ban Nha (thông qua Mexico) cai trị Philippines cho tới khi Mexico độc lập. Một con đường thương mại dùng thương thuyền Manila hay các thương thuyền theo đường Manila-Acapulco đã bắt đầu phát triển từ cuối thế kỷ 16. Thời kỳ cai trị Philippines của Tây Ban Nha bị gián đoạn một thời gian ngắn năm 1762, khi quân đội Anh tấn công và chiếm quần đảo để trả đũa việc Tây Ban Nha tham gia vào cuộc Chiến tranh bảy năm. Hiệp ước Paris (1763) khôi phục sự cai trị của người Tây Ban Nha và quân đội Anh rút đi năm 1764. Giai đoạn cai trị ngắn của người Anh đã làm Tây Ban Nha suy yếu nhiều về quyền lực.

Năm 1781, Tổng toàn quyền José Basco y Vargas lập ra Hội Kinh tế của những Người bạn của Quốc gia. Lúc ấy Philippines đang nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Tây Ban Nha. Những phát triển bên trong và bên ngoài đất nước đã mang lại nhiều tư tưởng mới cho người Philippine. Việc khai trương Kênh đào Suez năm 1869 đã làm giảm thời gian đi lại giữa hai nước. Điều này làm cho ilustrados, tầng lớp trí thức Philippines bắt đầu xuất hiện, bởi vì nhiều thanh niên Philippines có thể sang học tại châu Âu.

Tuyên bố về một Katipunero đã dẫn tới cuộc Cách mạng Philippines năm (1896–1898).

Từ năm 1946, Philippines phải đối mặt với tình trạng mất thăng bằng kinh tế và chính trị. Hukbalahap (tổ chức du kích thành thị chiến đấu chống lại Nhật Bản hay HUKbong ng BAyan LAban sa HAPon Philippine trong Thế chiến thứ hai), quay sang đi theo ý thức hệ cộng sản.

Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 là thời gian nổi lên của các phong trào hành động sinh viên và những cuộc biểu tình chống Mỹ.

Trong Cuộc cách mạng dân quyền năm 1986, Marcos và gia đình bị trục xuất tới Hawaii, khi Corazon Aquino, quả phụ của Thượng nghị sĩ đã bị ám sát trước đó (Benigno Aquino, Jr.), lên nắm quyền chính phủ sau một cuộc bầu cử đột xuất (snap election) nhiều tranh cãi.

Sau cuộc cách mạng đó, năm 1987 Hiến pháp Philippines hiện tại được thông qua.

2.  Thời kì đầu

Người ta biết rất ít về cơ cấu chính trị, xã hội và kinh tế của các đảo mà hiện nay là đất nước Philippines trước khi người Tây Ban Nha đến đây vào giữa thế kỷ 16. Các đảo này có dân cư thưa thớt, với tổ chức chính trị lấy cơ sở là làng và họ hàng thân thuộc. Mạng lưới mậu dịch được tổ chức tốt giữa các đảo và liên kết các đảo với mạng lưới rộng lớn hơn trong khu vực Đông Nam Á và đến tận Trung Hoa và Ấn Độ

Đạo hồi là tôn giáo đầu tiên tác động vào cơ sở tín ngưỡng dân gian của người dân Philippines ở các đảo nhỏ phía nam, nơi tiếp giáp gân với vương quốc hồi giáo Brunei được hình thành từ thế kỷ 15. Từ Brunei, đạo hồi lan truyền lên đảo Sulu và hình thành nên Nhà nước Hồi giáo Sulu ở thế kỷ 15, từ đây đạo hồi từng bước lan lên các đảo Mindanao thậm chí đến cả đảo Luzon. Tuy nhiên sự đặt chân của người Tây Ban Nha ở cuối thế kỷ 15, đã ngăn chặn ảnh hưởng của Hồi giáo lan khắp các đảo

3. Dưới sự kiểm soát của Tây Ban Nha

Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha – Magellan chỉ huy một đoàn thám hiểm đặt chân đến Philippines vào đầu thế kỷ 16, ông đã bị giết chết tại đây trong cuộc giao tranh với một bộ tộc bản xứ.

Các đoàn thám hiểm kế tiếp của Tây Ban Nha xuất phát từ Mexico – một thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ được phái đến tây Thái Bình Dương, mãi đến năm 1564 các nhà cầm quyền của Mehico mới quyết định xâm chiếm các đảo Philippines.

Có hai động cơ thúc đẩy người Tây Ban Nha đến đây: một là quyết định muốn truyền giáo và hai là khả năng mở các cảng buôn bán mới và mở rộng thương mại sang châu Á

Nơi định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha là đảo Cebu ở miền nam Philippines vào năm 1565, năm 1571 tổng hành dinh của Tây Ban Nha được chuyển về Manila, nơi sau nay là một trung tâm xuất nhập khẩu thu mua và phân phối hàng hoá do các thương gia người Hoa thống trị.

Từ đây, bắt đầu hơn 300 năm ảnh hưởng của Tây Ban Nha ở Philippines, các đảo được đặt tên của thái tử Felipe của Tây Ban Nha và nhanh chóng trở thành tên Philippines

4. Dưới sự ảnh hưởng của Mỹ

Hoa Kỳ và Tây Ban Nha bắt đầu lao vào cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ năm 1898.

Aguinaldo lúc ấy quay lại lôi kéo người Philippine và hứa hẹn mang lại độc lập cho đất nước giống như điều Mỹ đã thực hiện đối với Cuba, là nước đã tự lực chiến đấu để giành lại độc lập từ tay người Tây Ban Nha. Vì thế, ngày 12 tháng 6 năm 1898, với thắng lợi đã gần nắm chắc trong tay, Aguinaldo tuyên bố nền độc lập của Philippines tại Kawit, Cavite.

Tuy nhiên, trận đánh Manila giữa Tây Ban Nha và Mỹ hoá ra lại là nỗ lực để loại trừ người Philippine khỏi vị trí kiểm soát Manila. Tây Ban Nha và Mỹ bỏ mặc đại diện của Philippines là Felipe Agoncillo trong những cuộc đàm phán để dẫn tới Hiệp ước Paris 1898.

Trong những cuộc thương lượng, Tây Ban Nha buộc phải trao lại Guam, Philippines và Puerto Rico cho Hoa Kỳ để đổi lấy US$ 20.000.000 khoản tiền mà sau này người Mỹ gọi là “quà tặng” cho Tây Ban Nha. Cuộc nổi dậy đầu tiên của Cộng hoà Philippines chống lại sự chiếm đóng của Mỹ dẫn tới Chiến tranh Philippines-Mỹ (lúc ấy cũng được gọi trong các hồ sơ của Chính phủ Mỹ và một số người Mỹ là “Cuộc nổi dậy Philippines) (1899–1913).

Dần dần hòn đảo hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Mỹ và được tổ chức như một vùng lãnh thổ Mỹ. Năm 1935, quy chế của họ được tăng lên thành một nước trong khối thịnh vượng chung của Mỹ, và nhiều kế hoạch được đưa ra nhằm trao lại độc lập cho họ trong thập kỷ sau đó.

Cuối cùng, Philippines được trao lại độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1946, thậm chí sau khi Nhật Bản đã tấn công và chiếm quần đảo này trong Thế chiến thứ hai, gây ra tình trạng mà một số người gọi là sự chậm trễ trong việc trao lại độc lập, dù sao cách gọi này không bao giờ được sử dụng trong chính trị Mỹ và Philippines.

5.  Từ 1946 đến nay

Từ năm 1946, Philippines phải đối mặt với tình trạng mất thăng bằng kinh tế và chính trị. Hukbalahap (tổ chức du kích thành thị chiến đấu chống lại Nhật Bản hay HUKbong ng BAyan LAban sa HAPon Philippine trong Thế chiến thứ hai), quay sang đi theo ý thức hệ cộng sản. Họ được nhiều nông dân ủng hộ khi đưa ra những hứa hẹn về cải cách đất đai. Họ được tổ chức bí mật và tung ra các chiến dịch xúi dục nổi loạn chống chính phủ và các lực lượng chính phủ, tiến hành các hành động khủng bố, gồm cả bắt cóc, thảm sát, ám sát, hãm hiếp và tống tiền. Họ đe doạ những vùng nông thôn, và sau đó là cả thủ đô, Thành phố Quezon, và Manila trong thập niên 1950.

Cuối cùng mối đe doạ này cũng chấm dứt khi Huk supremo Luis Taruc đầu hàng một nhà báo trẻ Benigno Aquino Jr. (sau này được bầu làm Thượng Nghị sĩ, cha của Tổng thống Benigno đương nhiệm), và Bộ trưởng quốc phòng Ramón Magsaysay, người sau này trở thành Tổng thống.

Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 là thời gian nổi lên của các phong trào hành động sinh viên và những cuộc biểu tình chống Mỹ. Một hội nghị lập hiến gồm những phái đoàn được bầu ra đã phác thảo một hiến pháp mới với mục tiêu thay thế cho hiến pháp khối thịnh vượng chung do Mỹ đề xướng năm 1935 một khi cuộc trưng cầu dân ý thông qua nó. Giai đoạn này được đánh dấu bởi tình trạng bất ổn trong đời sống thường ngày và tình trạng tham nhũng cho tới khi luật về tình trạng khẩn cấp được tuyên bố ngày 21 tháng 9 năm 1972.

Hiến pháp mới sau đó bắt đầu có hiệu lực dù một số khía cạnh của nó vẫn còn bị tranh cãi vì sự phê chuẩn của nó đang được bàn cãi tại Toà án tối cao. Sự tranh cãi này lên tới đỉnh điểm với việc Chánh án tối cao Roberto Concepcion từ chức. Tình hình tiếp tục xấu đi trong nhiều năm sau khi chế độ độc tài của Tổng thống Ferdinand Marcos, người ban đầu được dân bầu ra nhưng cuối cùng đã kéo dài thời cầm quyền của mình bằng những biện pháp trái luật, trở thành tình trạng tham nhũng và chế độ chuyên quyền trở nên công khai, rộng khắp đất nước, tiếng than oán của dân chúng và tình trạng bất đồng bị đẩy lên tới cực điểm.

Trong Cuộc cách mạng dân quyền năm 1986, Marcos và gia đình bị trục xuất tới Hawaii, khi Corazon Aquino, quả phụ của Thượng nghị sĩ đã bị ám sát trước đó (Benigno Aquino, Jr.), lên nắm quyền chính phủ sau một cuộc bầu cử đột xuất (snap election) nhiều tranh cãi. Sau cuộc cách mạng đó, năm 1987 Hiến pháp Philippines hiện tại được thông qua.

Trong khi một số người đã nêu ra những cải cách về chính phủ và mức độ quay trở lại chế độ dân chủ của thời hậu Marcos, tình trạng tham nhũng, sự bất ổn trong đời sống đất nước và hoạt động của nhóm nổi loạn cũng như những phong trào li khai Hồi giáo tiếp tục ngăn cản phát triển kinh tế của đất nước trong nhiều năm.

Theo SEATIMES

Tags: