Cuộc khởi binh chống Pháp bi hùng của ông Đạo Tưởng

Từ một thanh niên nông dân, Đạo Tưởng vì chán ghét cảnh bất công áp bức đã bỏ xứ đi “tầm sư học đạo”. Ông trở về Tân Châu chữa bệnh cứu người, dạy võ và truyền đạo… Khi trong tay đã có hơn 1 vạn tín đồ, Đạo Tưởng làm lễ xưng vương, lấy hiệu là Minh Hoàng Quốc. Các tín đồ một mực tin rằng, ông Đạo có phép thần thông, có chân mạng đế vương, đạn Tây bắn không thủng… Họ đã công khai chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi, lập nên triều đại mới trên đất Việt.

Cuộc khởi binh chống Pháp bi hùng của ông Đạo Tưởng

Người dân miền Tây Nam bộ đã đứng lên kháng Pháp ngay khi giặc ngoại xâm mới chiếm vùng đất này. Thế nhưng những cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân… đều lần lượt thất bại. Sau khi những cuộc khởi nghĩa chính thống thất bại, nơi đây lại xuất hiện những cuộc khởi nghĩa mang màu sắc thần bí.

Người nông dân tập họp quanh những “ông Đạo” được đồn đại là có phép thuật màu nhiệm, súng bắn không thủng thịt da, đánh đuổi được giặc Pháp. Nổi bật trong số đó là 2 cuộc khởi nghĩa của Đạo Tưởng và Phan Xích Long.

.

Ông Đạo Tưởng – huyền thoại và đời thực

Trong bộ phim nổi tiếng Đất phương Nam có trường đoạn “ông Đạo” dấy binh khởi nghĩa chống thực dân Pháp, nhưng không thành, bị giặc Pháp bắn chết. Đó không phải là chuyện hư cấu mà dựa theo một câu chuyện có thật ngoài đời. Đó là ông Đạo Tưởng (tên thật Lâm Văn Quốc) từng chiêu mộ được hơn 1 vạn tín đồ, xưng Vương và hiệu triệu cuộc khởi nghĩa kháng Pháp. Các tín đồ đều tin rằng, “minh chủ” của họ có bùa phép làm cho súng đạn của Pháp bắn không thủng…

Chuyện phim, chuyện đời

Bộ phim nhiều tập “Đất phương Nam” dựa theo tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời lưu lạc của một cậu bé tên An. Bối cảnh câu chuyện là vùng sông nước miền Tây Nam Bộ vào những năm 1940. Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, đổ quân vào Nam Bộ. An và ba mẹ cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để chạy giặc. Rồi An lạc mất gia đình, trở thành đứa trẻ lang thang…

Trong bộ phim có trường đoạn ông Đạo (thầy Bảy) khởi nghĩa đánh Tây thật ấn tượng. Theo truyện phim, thầy Bảy từng là thầy dạy học của An. Khi thực dân Pháp xâm lược Nam bộ, thầy Bảy vì ghét Tây mà bỏ nghề dạy học, lập gánh hát cải lương, rày đây mai đó. Thầy chuyên viết tuồng cho gánh hát, vợ thầy làm đào chính của gánh. Những tuồng hát khơi gợi lòng yêu nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm, cứu nước, như là cách thầy Bảy đấu tranh chống giặc Pháp xâm lược. Một lần, gánh hát của thầy Bảy đi diễn ở vùng quê, đêm về nghỉ tạm ở một ngôi miếu hoang. Nửa đêm, tên hương tuần trong làng cho gia nhân tới lén bắt cóc cô đào chính – cũng là vợ thầy Bảy – về làm thê thiếp.

Một ngày nọ, tên hương tuần có quan Tây tới thăm, hắn bắt cô đào hát diễn phục vụ. Trước mặt khách, cô hát trích đoạn người vợ vì hoàn cảnh mà không giữ vẹn lòng trung trinh với chồng nên đã quyên sinh để chứng tỏ tấm lòng son. Lớp diễn kết thúc thật ấn tượng, nhưng cô đào cứ nằm mãi trên nền nhà chứ không dậy. Tên hương tuần thấy lạ bước đến xem, thì ra cô đào hát đã tự tử thật khi đang diễn vai tuồng phục vụ khách. Thầy Bảy đã bỏ gánh hát, lên núi Thất Sơn tu luyện, trở thành “ông Đạo”, trong tay có cả vạn tín đồ. Rồi ông dẫn quân binh trở lại vùng quê cũ – nơi người vợ bị bắt cóc và quyên sinh – dấy binh khởi nghĩa chống Pháp ở nơi ngôi miếu cổ năm nào.

Mở đầu cuộc dấy binh khởi nghĩa kháng Pháp, “ông Đạo” cho bắt tên hương tuần tới hỏi tội. Tên hương tuần đã bị hành quyết để “tế thần” trước mặt hàng vạn quân binh. Xong, “ông Đạo” cho đệ tử dùng súng Tây bắn vào ngực ông. Ông chẳng những không chết, mà còn nhả từ miệng ra đầu đạn còn nóng hổi… Hàng vạn tín đồ cuồng nhiệt trước cảnh súng đạn Tây không giết chết được “ông Đạo”. Họ sôi sục chuẩn bị kéo đi đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước…

“Ông Đạo” và hàng vạn tín đồ chưa kịp khởi binh thì quân Pháp kéo tới. “Ông Đạo” cùng các tín đồ đường hoàng đối đầu với đám lính Pháp vũ khí đầy mình. Một tên lính giương súng bắn vào “ông Đạo”, nhưng súng không nổ, càng làm cho các tín đồ cuồng nhiệt, định xông lên giết giặc Pháp. Thế nhưng, tên cò Tây đã nổ súng, đạn trúng vào ngực, “ông Đạo” gục xuống, máu trào ra miệng. Hàng vạn tín đồ thất kinh hồn vía, hè nhau bỏ chạy…

Đó không phải là chuyện hư cấu của các tác giả, mà họ dựa theo một câu chuyện có thật, đó là cuộc khởi binh của ông Đạo Tưởng. Ông được đồn đại là người có phép thuật cao cường nhất trong số những “ông Đạo” ở miền Tây Nam bộ, dấy binh chống Pháp trong nửa đầu thế kỷ 20. Ông Đạo Tưởng đã dựa vào niềm tin thần bí của người dân mà quy tụ cả vạn tín đồ nổi lên chống Pháp.

Huyền thoại những “ông Đạo”

Sau khi bộ ba Trương Định – Nguyễn Trung Trực – Thủ Khoa Huân lần lượt bị giặc Pháp bắt và hành quyết, phong trào kháng Pháp trên đất Tây Nam bộ trở nên trầm lắng vì không có “ngọn cờ”. Trong bối cảnh đó, những người yêu nước mang tư tưởng thần bí đã đứng lên hiệu triệu nhân dân và được gọi là “ông Đạo”. Họ được truyền tụng là có phép thuật cao siêu, đạn bắn không thủng, vì vậy mà đã tập hợp được rất nhiều người dân dễ tin đứng lên kháng Pháp.

Không ít chuyện “ông Đạo” được đồn đại, truyền miệng qua nhiều người, nhiều thêm bớt, bịa đặt làm tăng thêm sự huyền hoặc, linh diệu, mê hoặc người đời. Về tuổi tác, tuy các tư liệu không nói đến tuổi của các ông Đạo, nhưng qua hành vi và lời kể, miêu tả, thì hầu hết các “ông Đạo” trên 40 tuổi, cái tuổi được người đời gọi là “ông” và có được sự sùng tín. Về tên gọi của các “ông Đạo”, người dân hầu như không gọi tên thật của các “ông Đạo” mà thường căn cứ vào đặc điểm nào đó, vào cử chỉ, hành vi như: Ông Đạo Khùng, Đạo Chợ, Đạo Đọt, Đạo Dừa, Đạo Nằm…

Hình dáng và cử chỉ của các “ông Đạo” phần nhiều mang tính kỳ quái, mang dáng vẻ tâm thần, hoặc cố ý lập dị để tìm kiếm sự chú ý, như để râu tóc thật dài, ăn đậu bắp, chuối, uống nước dừa, suốt ngày ngồi niệm tưởng, hoặc chỉ nằm, ngồi trên gò mối để tu thiếp, ngủ đầu đường xó chợ, hoặc tìm lên núi vùng Thất Sơn lập am, cốc tu hành. Phần nhiều các “ông Đạo” hành nghề chữa bệnh bằng bùa phép, hoặc các phương thức chữa bệnh kỳ quái khác, dựa vào niềm tin, bái phục của người bệnh. Cách chữa bệnh chủ yếu là dùng ma thuật. “Ông Đạo” nào càng kỳ quái, thì người bệnh càng tin tưởng. Bằng việc chữa bệnh, các “ông Đạo” thông qua đó để truyền bá đức tín cho tín đồ.

Những “ông Đạo” ra đời, với những ma thuật, phù thủy của Đạo giáo dường như đã đáp ứng phần nào sự tìm kiếm một chỗ bám víu cho sự khủng hoảng, bế tắc của người nông dân Nam bộ. Những “ông Đạo” này cũng là cơ sở, là tiền đề để đi đến sự hình thành những tôn giáo, đạo phái tạm gọi là “bản địa” của vùng đất Nam bộ từ giữa sau thế kỷ 19.

Thất Sơn huyền bí

Trên vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng bỗng nổi lên một cụm 37 ngọn núi, trong đó có 7 ngọn cao nhất nằm liền kề nhau, gọi là Bảy Núi hoặc Thất Sơn, thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Ngày nay, 7 ngọn núi ấy có tên là: Núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn), núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn), núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn), núi Dài (Ngọa Long Sơn), núi Tượng (Liên Hoa Sơn), núi Két (Anh Vũ Sơn), núi Nước (Thủy Đài Sơn). Rất nhiều câu chuyện kỳ bí về vùng núi này được dân gian truyền khẩu, từ khi tiền nhân ta khai mở miền đất phương Nam bạt ngàn hoang dã, mà lúc ấy, nơi đây còn đầy dẫy thú dữ với ngút ngàn sơn lam chướng khí.

Khi xưa, vùng Bảy Núi phần lớn là rừng rậm nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý. Đến thế kỷ thứ 17, nơi đây hãy còn hoang vu. Nói về mặt tự nhiên của vùng Bảy Núi, Gia Định thành thông chí mô tả: Hang núi ngậm mây, suối cong nhả ngọc, lại có những cây giáng hương, tóc hương, cây cối xanh um, cầm thú béo mập. Phía đông có ruộng đồng bằng phẳng, phía tây có hồ nước… Sau này, vùng Bảy Núi còn là nơi hội tụ của những sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương. Vì nơi đây vừa có đồng bằng thuận lợi cho việc canh tác, vừa có núi rừng trú ẩn, có lối trốn sang nước Campuchia, nếu bị đối phương lùng sục… Cho nên, rất nhiều người đã tìm đến đây, mỗi người mang một tâm trạng, đến để chuẩn bị chiến đấu, để chờ thời cơ hay chỉ để lãng quên thực tế….

Vì vậy, vùng đất này gắn liền tên tuổi của nhiều danh nhân như: Đoàn Minh Huyên, Thủ Khoa Huân, Trần Văn Thành, Ngô Lợi, Trương Gia Mô… Đây cũng là nơi hội tụ nhiều “ông Đạo”, bởi vậy có câu: “Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi”. Chính tại nơi đây có 2 “ông Đạo” đã tu luyện, sau đó quy tụ được hàng vạn tín đồ, dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, đều bị thực dân Pháp bắn chết. Đó là Đạo Tưởng và Phan Xích Long.

Đạo Tưởng xưng Vương “Minh Hoàng Quốc cứu thế”

Sự ra đời của Đạo Tưởng

Đạo Tưởng tên thật là Lâm Văn Quốc (Ba Quốc), quê ở huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Tại vùng đất Giá Rai, vào đầu thế kỷ 20 đã xảy ra một sự kiện gây chấn động cả nước, có ý nghĩa sâu sắc trong lịch sử đấu tranh giữ đất của những người đi khai hoang, đó là cuộc thảm sát trên cánh đồng Nọc Nạng. Năm 1928, tại đồng Nọc Nạng nổ ra cuộc quyết chiến đẫm máu giữa những người nông dân giữ lúa, giữ đất – anh em ông bà Mười Chúc – chống lại những tên cướp lúa, cướp đất – bọn địa chủ cấu kết với thực dân Pháp, làm chết 17 người.

Nhà nghèo, Lâm Văn Quốc chỉ học đến hết tiểu học. Nhờ lao động từ nhỏ, lớn lên Ba Quốc có thân hình vạm vỡ. Cùng với nhiều trai tráng trong vùng, ông luyện tập võ nghệ để có cơ hội thì đem ra giúp đời. Lớn lên gặp lúc giặp Pháp xâm lược quê hương, bọn cường hào ôm chân Pháp hà hiếp nông dân, trong đó có vụ đồng Nọc Nạng, Ba Quốc bỏ xứ ra đi để thỏa chí bình sanh. Ông thích giao du với các hảo hớn, học võ “Thiếu lâm tự”, ông lưu lạc lên đất Cao Miên, qua Ai Lao, qua cả Xiêm La để học võ, học bùa ngải.

Sau này, khi đã thành Đạo Tưởng, có trong tay cả vạn tín đồ, xưng vương xưng bá ở vùng đất Tân Châu, ông Ba Quốc kể rằng, trong những năm ông “tầm sư học đạo” ở nước ngoài, ông đã gặp những sư phụ võ công thâm hậu, dạy cho ông những phép thần thông vô song. Cụ thể là ở Cao Miên ông học được phép thuật giúp đạn bắn không thủng người, ở Ai Lao ông học được phép thuật dùng cặp mắt thu phục người khác, kéo họ về với ông, ở Xiêm La ông học được tài biết chuyện ngàn năm trước, trăm năm sau…

Sau mấy năm “tầm sư học đạo” ở nước ngoài, Ba Quốc trở lại đất Tân Châu, lãnh cai quản sở ruộng cho gia đình người cậu ruột của mình là ông Nguyễn Chánh Sắt, người có tiếng trong làng văn, làng báo ở Nam kỳ thời bấy giờ. Nguyễn Chánh Sắt là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu nhất Nam bộ hồi đó, có đóng góp đáng kể vào việc nối liền hai bờ văn học cổ điển và văn học hiện đại ở Việt Nam. Người đương thời coi Nguyễn Chánh Sắt là một trong những dịch giả truyện Tàu đặc sắc nhất.

Sống trong không gian truyện Tàu của người cậu ruột Nguyễn Chánh Sắt, cùng với võ công có sẵn trong người, Ba Quốc bắt đầu hành động theo môtíp truyện Tàu. Tương truyền một đêm trời đất âm u, bỗng dưng Lâm Văn Quốc bắt đầu la hét, đấm ngực, đụng đầu vào cột nhà, tự xưng lúc là “ông tướng núi”, khi là “ông Lèo” làm náo động cả xóm. Rồi ông bỏ nhà lên núi Thất Sơn tu tịnh như các đạo sĩ, sau đó trở về Tân Châu dựng cái am bằng tre lá bề thế, tọa lạc trên con đường Hương Chùa, cách chợ Tân Châu độ cây số để tu tịnh. Ông cạo đầu, mặc áo màu vàng, chuyên tâm lo việc tụng niệm, dạy võ nghệ, hoặc dùng bùa ngải, ngồi quán tưởng (nên được gọi là Đạo Tưởng) hay “đụng đầu vào cột nhà” để trị bệnh cho dân. Bằng cách ấy, Đạo Tưởng đã phôi thai tại một góc trời miền Tây Nam bộ.

Đạo quân hơn 1 vạn nông dân

Sau gần 10 năm hành đạo, Đạo Tưởng thu phục được trên 1 vạn tín đồ sống rải rác khắp huyện Tân Châu và vùng lân cận. Cách thu phục tín đồ của Đạo Tưởng là đi bốc thuốc trị bệnh cho người dân không lấy tiền. Không biết Đạo Tưởng học nghề thuốc ở đâu, mà chữa bệnh rất tài, nhiều con bệnh khi đến tay ông đã được chữa khỏi. Những người bệnh sau khi khỏe mạnh trở lại phần nhiều trở thành tín đồ của ông. Trong lúc đi chữa bệnh cứu người, Đạo Tưởng tranh thủ khuếch trương thanh thế của mình như là vị cứu nhân độ thế, có tài phép thần thông, được phật trời sai xuống cứu giúp nước Nam thoát khỏi vòng đô hộ của thực dân Pháp. Ông cũng tranh thủ “biểu diễn” một vài điều “thần bí” như là những màn ảo thuật đơn giản mà ngày nay ta có thể dễ dàng giải thích, như biến đổi màu của nước, bình nước đã cạn lại chảy nước trở lại…

Từ miệng của người bệnh được chữa khỏi và gia đình họ, tiếng đồn về Đạo Tưởng ngày càng lan xa, khắp nơi xôn xao về hiện tượng Đạo Tưởng. Ông đi đến đâu cũng được tín đồ tung hô, vái lạy. Cùng với việc chữa bệnh, Đạo Tưởng tổ chức dạy võ cho thanh niên trong làng. Võ của ông pha trộn của các trường phái võ khác nhau, nặng nhất là “võ bùa” Cao Miên. Dần dần, cái sân am hành đạo của ông biến thành sân võ. Một đêm, đệ tử thấy thần oai, ông đụng đầu vào một thân cây, cây lá rung rinh như đương đầu trước ngọn gió. Có lần ông đóng cây đinh ba tấc vào cột nhà, trước mặt hàng ngàn tín đồ đứng vây quanh, ông đụng đầu vào cây đinh, cây đinh quẹo ngang mà đầu ông không hề hấn gì. Đêm đêm, trước cái sân am hành đạo của ông, lá dừa bó thành đuốc nổ lép bép, hàng ngàn tín đồ với sắc phục vàng hươm, kiếm loang loáng trong ánh đuốc đỏ rực dưới trời đêm.

Nhiều tín đồ ở rất xa cũng cùng đến Tân Châu thọ giáo Đạo Tưởng. Một trong những người đó là kỹ sư Nguyễn Thành Nam, người sau này trở thành Đạo Dừa. Kỹ sư Nguyễn Thành Nam khâm phục, nhưng không tán thành giáo lý của Đạo Tưởng, vì vậy ông không ở lại Tân Châu, mà lên núi Thất Sơn để ngồi một chỗ tu tịnh suốt 3 năm, sau đó trở về Bến Tre lập nên Đạo Dừa.

“Minh Hoàng Quốc cứu thế”

Sau gần 10 năm hành đạo, quy tụ được hơn một vạn tín đồ, Đạo Tưởng tự xưng mình là “Minh Hoàng Quốc”, lập đàn phong vương và phong cho các em ruột và các môn đệ các chức tước, như “ngự đệ”, “quân sư”, “nguyên soái”, “đô đốc”… Về duyên cớ ông Đạo Tưởng tự phong cho mình là Minh Hoàng Quốc, theo một vài nhà nghiên cứu, có lẽ ông bị ảnh hưởng bởi những pho truyện Tàu mà ông từng nghiền ngẫm trong thời gian trú ngụ tại nhà người cậu ruột là Nguyễn Chánh Sắc.

Trong số những quyển truyện Tàu mà Ba Quốc thích đọc, có cuốn viết về vị vua nhà Đường tên Đường Huyền Tông (685 – 762), thụy hiệu là Đường Minh Hoàng, là vị hoàng đế thứ 6 của nhà Đường ở Trung Quốc, trị vì Trung Quốc từ năm 712 – 756. Thời gian trị vì của ông dài nhất trong các vị hoàng đế nhà Đường và ông được xem là đã mang đến cho nhà Đường đỉnh điểm về văn hóa và quyền lực, trong đó đáng kể nhất và để lại mãi cho hậu thế và những bài thơ Đường.

Đạo Tưởng rất ái mộ Đường Minh Hoàng, cả về tài thao lược quân binh, trị vì thiên hạ, lẫn tài văn chương thơ phú. Kể cả chuyện tình của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi cũng được ông Đạo ngưỡng vọng, như ông đã từng nói với các tín đồ. Ông Đạo Tưởng mơ có ngày mình sẽ trị vì nước Nam giống như Đường Minh Hoàng, mở ra triệu đại mới đưa nước Nam đi lên thịnh vượng… Trong đầu ông đạo sĩ ở một góc trời Tây Nam bộ hiện rõ viễn cảnh: Một vì vua nước Nam tên là Minh Hoàng Quốc sau khi đánh đuổi ngoại xâm, thu phục giang sơn, đã xây dựng nên triều đại mới thịnh vượng, quốc thái dân an; vì vua cũng say mê văn chương, thơ phú, cũng có những mối tình tuyệt đẹp để lại danh tiếng mãi cho hậu thế…

Sau khi đã xưng vương, ổn định quân binh, Đạo Tưởng bắt đầu lên kế hoạch làm đại cuộc, tức dấy binh khởi nghĩa, tiến tới chiếm huyện Tân Châu, rồi tỉnh An Giang, xong kéo “đại quân” về Sài Gòn giải phóng đất nước khỏi ách ngoại xâm, dựng nên triều đại Minh Hoàng Quốc. Trong một lần thuyết giáo với hàng ngàn tín đồ, Đạo Tưởng đã vạch ra khá chi tiết kế hoạch dấy binh khởi nghĩa của mình, theo đó “đại cuộc” sẽ hoàn tất nội trong năm Kỷ Mão 1939. Đầu năm, ông sẽ dấy binh khỏi nghĩa chiếm huyện Tân Châu, giữa năm sẽ thu phục cả tỉnh An Giang và cuối năm sẽ “thu giang sơn về một mối”.

Hàng vạn tín đồ nghe “minh chủ” thuyết giáo và đưa ra kế hoạch cụ thể, mà lại gần kề, ai cũng phấn chấn, bỏ hết công ăn việc làm để tập võ, rồi đi vận động người thân tham gia Đạo Tưởng để sau này “vinh hoa phú quý”. Trong những ngày cuối năm 1938, đầu năm 1939, không khí ở vùng quê Tân Châu, nơi Đạo Tưởng ảnh hưởng sâu đậm nhất, lúc nào cũng nhộn nhịp, sôi động chuyện luyện tập quân binh, mọi người bàn tán xôn xao chuyện nước Nam sắp có vua mới, người Pháp sắp bị đánh đuổi ra khỏi nước Việt.

Đạo Tưởng khởi binh kháng Pháp 

Trong những lần thuyết giáo trước các tín đồ, Đạo Tưởng thường nhắc đến cái mốc năm Kỷ Mão lúc ông thực hiện sứ mạng cứu nhân độ thế, đem lại hòa bình, độc lập cho nước Nam. Vì vậy, Tết năm Kỷ Mão là cái tết đặc biệt của hàng vạn tín đồ, họ ăn tết trong sự phấn chấn, chờ đợi một biến cố lớn, đưa họ từ những nông dân nghèo trở thành những thần dân sung sướng nhờ ơn mưa móc của đấng “minh chủ” Minh Hoàng Quốc sau khi thống lĩnh nước Nam. Không phải chờ đợi lâu, khi những ngày “mùng” của Tết Kỷ Mão còn chưa qua, những cây nêu ngày tết còn chưa được hạ xuống, hàng vạn tín đồ Đạo Tưởng được thông báo “hội quân” vào đêm mùng 8 rạng ngày 9 tháng Giêng âm lịch năm Kỷ Mão (tức 26 tháng 2 năm 1939).

Đêm hội quân đã đến, các tín đồ tập trung về quanh am nơi Đạo Tưởng hành đạo, họ đi theo các con đường làng, đuốc rực sáng một góc trời. Không phải tất cả hơn một vạn tín đồ của Đạo Tưởng đều có mặt trong ngày khởi binh, vì nhiều người còn bán tín bán nghi về khả năng siêu phàm của Ba Quốc, họ đợi xem kết quả ngày khởi binh ra sao mới quyết định nhập cuộc. Tuy vậy, ước tính cũng có hàng ngàn tín đồ tham gia đêm dấy binh mùng 8 tết năm Kỷ Mão.

Trước hàng ngàn tín đồ, Đạo Tưởng xuất hiện uy nghi hơn ngày thường rất nhiều. Ông mặc hoàng bào giống như trang phục của vua chúa, có lẽ các đệ tử đã đặt may hoặc trưng dụng đồ của đoàn hát bội mới về diễn ở quận lỵ Tân Châu. Đạo tưởng bước ra “sân chầu” với dáng đi bệ vệ, oai phong, theo cái cách của những kép hát bội khi đóng vai vua chúa. Xung quanh ông là đầy đủ “tể tướng”, “quan văn”, “quan võ”, cùng các quần thần theo đúng nghi lễ của một cuộc “yết triều” mà người ta từng thấy trong các tuồng hát bội.

Đêm trăng lưỡi liềm mờ mờ ảo ảo cùng khói nhang nghi ngút, các tín đồ từ xa kéo đến nghe ông thuyết pháp. Buổi thuyết pháp trong đêm huyền ảo ấy, ông không giảng giáo lý cao siêu của đấng từ bi hay đức hy sinh cao cả của Phật Thích Ca, không cho các tín đồ luyện võ, mà chuyển giọng sang sảng như tiếng kèn thúc quân.

Mở đầu buổi tối thuyết giáo, Đạo Tưởng nói với các tín đồ đang tụ hội đông đảo về cái nhục mất nước, cái họa ngoại xâm, rồi kêu mọi người hãy cầm vũ khí, đánh đuổi thực dân Pháp. Nhiều người dân Tân Châu tới bây giờ vẫn còn nhớ cái cảm giác xúc động khi Đạo tưởng trong khói nhang mờ ảo cất giọng lảnh lót: “Hỡi đồng bào! Dân tộc ta đã bị người Lang Sa cai trị nhục nhã gần trăm năm nay, số của chúng ta đã sắp mãn, đồng bào hãy cùng bổn đạo đánh đuổi quân thù rửa nhục nước”. Rồi ông đưa tay vỗ ngực, dõng dạc tự xưng “Ta là Chánh vì Vương thừa mạng trời lập quốc”.

Ông kêu gọi các tín đồ tạm gác bỏ chuyện gia đình, sát cánh cùng ông đi đánh đuổi giặc ngoại xâm, chiếm quận Tân Châu, rồi tỉnh An Giang, sau cùng là thống lĩnh đất nước, dựng nên triều đại mới. Ông tuyên bố súng Tây bắn vào người ông không thủng, ông cũng ban phép màu cho các tín đồ để giúp súng đạn bắn không trúng vào người, mà lệch hướng đi nơi khác. Cao hứng hơn, ông nói, sau khi “lập quốc”, ông sẽ đưa kinh đô về đất Tân Châu, những tín đồ Đạo Tưởng sẽ là dân kinh kỳ sung sướng, giàu có…

Bằng giọng nói hùng biện của mình, cùng khung cảnh mờ ảo linh thiêng của đêm trăng, Đạo Tưởng đã hoàn toàn thuyết phục được các tín đồ. Như sóng dậy từ lòng người, tiếng hò hét của tín đồ dâng lên như sấm, đuốc huơ cao, gươm dao vung lên loang loáng, tiếng reo, tiếng trống, tiếng phèng la nổi dậy trời… Chó dọc theo con sông chảy qua trước am cất tiếng tru ông ổng, xao xác cả dân chợ, dân làng.

Khi cuộc thuyết pháp chấm dứt, Đạo Tưởng cùng những nhân vật chính trong “tiểu triều đình” ấy liền vào am họp bàn kế hoạch. Ngay sau đó, “Chánh vì Vương” ban mật lệnh: Cho mời hương tuần Trương Văn Hiếm tới am có việc cần. Ông Đạo Tưởng nguỵ tạo đó là lệnh của hương quản Huỳnh Công Minh. Vì hương tuần Hiếm là người dưới quyền của hương quản Minh, nên dù đang nửa đêm, ông Hiếm vẫn phải rời nhà đến am của Đạo Tưởng. Cùng lúc, ông hương quản Huỳnh Công Minh cũng được mời tới am, nhưng vì ông đi vắng nên không tới, nhờ vậy mà thoát chết.

Nghe lệnh ông hương quản Minh đòi tới am, ông Hiếm lật đật mặc áo vào rồi lên đường. Trên đường đi, ông Hiếm rủ thêm hai ông bạn láng giềng là Mai Văn Du và Mai Văn Lang, lúc này cũng vừa thức sớm, đang uống trà đàm đạo thời cuộc, mùa màng… Cả ba cùng tới am Đạo Tưởng, được các tín đồ sốt sắng “hộ tống” vào ngồi phía bên trong bàn dài, sát vách.

Giết người, cắt đầu tế thần

Thấy không khí trang nghiêm khác thường, Đạo Tưởng mặc trang phục như vua chúa, xung quanh các đệ tử như quan binh cận thần, ba vị khách cảm thấy chột dạ. Nhưng không còn kịp để họ tháo lui, một cuộc thảm sát lấy máu nhuộm lá cờ khởi binh đã được Đạo Tưởng và “triều đình” lên sẵn kế hoạch, nạn nhân là những người khách được mời trong đêm. Thấy không khí khác thường, không ai nói ra, nhưng cả hai ông Du và Lang đều cảm thấy có điều gì bất trắc, nên lo lắng, bồn chồn.

Trong khi đó, Đạo Tưởng và “tiểu triều đình” khuôn mặt ai cũng đằng đằng sát khí. Sau này ông Lang kể lại, chính ông cảm thấy sự nguy hiểm sắp xảy ra, nên bấm tay ông Hiếm. Ông Hiếm đứng dậy, định nói vài lời xin rút lui, còn ông Du giả bộ mắc tiểu, xin ra ngoài. Nhưng các ông chưa kịp bước ra thì thình lình có lệnh dõng dạc của Đạo Tưởng: “Đảng ta đâu? Thộp cổ lũ chúng nó cho mau!”. Khắp trong am có tiếng “dạ” đồng loạt như trong tuồng hát bội. Cánh cửa am đóng sập lại. Đã toan tìm lối thoát trước, nên ông Du kịp dốc toàn lực lách mình ra ngoài, chạy nhanh về nhà. Tuy vậy, ông cũng bị một vết chém khá sâu, máu tuôn xối xả. Vừa chạy, ông Du vừa la làng cầu cứu.

Lúc ấy, ông Hiếm bị các tín đồ trong am ôm chặt, hết phương vùng vẫy. Oai phong lẫm liệt như một tướng soái trong tuồng hát, Đạo tưởng chỉ vào mặt ông Hiếm gằn từng tiếng: “Mày nhớ lời thề “không phản thầy, phản đạo” hay không? Cho mầy sống chật đất”. “Nguyên soái” Năm phụ thêm: “Cho thằng này về chầu tiên tổ để làm gương cho kẻ khác”. Liền đó, một võ sĩ có thân hình lực lưỡng nhào tới vặn cổ ông Hiếm, rồi một tín đồ khác dùng dao chém mạnh, khiến đầu đứt lìa. Khắp mình mẩy ông Hiếm bị chém hàng chục nhát dao. Cảnh chém giết ghê rợn và hỗn loạn.

Giữa lúc nguy cấp, ông Mai Văn Lang liều mình thoát vòng vây. Nhờ có võ, ông tả xông hữu đột, bất thần đưa tay vét cán gươm của các tín đồ qua một bên, tống cho “Ngự đệ” Út một đạp, rồi bồi thêm cú thoi, khiến “Ngự đệ” Út ngã vô vách. Vòng vây đã giãn ra, nhưng cửa am còn khoá chặt. Ông Lang đạp mạnh vào vách am bằng lá chắm, cố hết sức bình sinh, nhảy vọt ra ngoài trong lúc khắp mình mẩy đều thọ thương tích.

Thoát được khỏi am, ông Lang vừa chạy vừa la làng: “Đạo Tưởng giết tôi!”. Trên đường chạy về nhà, ông ghé nhà ông Hiếm báo hung tin cho vợ ông này biết. Bà Hiếm xúc động xuýt ngất xỉu, nhưng rồi trấn tĩnh, lồng lộn, chửi bới thậm tệ, kêu gào thảm thiết. Không dằn được lòng căm thù, bà Hiếm xắn tay áo, đi xăm xăm lại am để nhìn chỗ chết của chồng và chửi bới cho đã cơn thịnh nộ. Bà vừa đi vừa nói: “Sống đồng tịch, đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Đạo Tưởng và các đệ tử đang say máu, lại bị bà Hiếm tới chửi bới thậm tệ, nên không nương tay, chỉ một nhát gươm là cho bà chết theo chồng. Thi thể hai nạn nhân bị chém nát bấy, nằm ngổn ngang trên vũng máu.

Trong lúc say máu, Đạo Tưởng và đám tín đồ liền chặt đầu bà Hiếm, rồi dùng hai cái đầu làm lễ tế cờ. Cũng còn may cho gia đình hương tuần Trương Văn Hiếm là các con của ông đã được những bà con và các tín đồ giữ lại bên ngoài, chứ nếu những đứa trẻ thoát được, chạy vào trong bên xác cha mẹ và gây náo động “sân chầu” thì trong cơn say máu, Đạo Tưởng và các “ngự đệ” hẳn không nương tay. Số mạng người bị “tế thần” trong ngày khởi binh có thể đã không dừng lại ở con số 2, mà là hàng chục người nhà của hương tuần Hiếm.

Trời sáng dần, nhưng các ánh đuốc vẫn cháy, khói nhang vẫn nghi ngút trước bàn thờ thần trên “sân chầu”, lá cờ khởi binh nhuộm đỏ máu của vợ chồng hương tuần Hiếm vì không có gió nên ủ rũ trước bàn thờ. Trên nền đất là xác của vợ chồng hương tuần Hiếm được xếp nằm ngay ngắn. Hai cái đầu lâu bị chặt lìa được cắm vào trụ dựng cạnh cột cờ. Ông Đạo Tưởng vẫn đứng bất động trước bàn thờ chờ đúng giờ Mão là xuất binh tiến thẳng về dinh quận Tân Châu.

Cuộc đối đầu đẫm máu giữa Đạo Tưởng và chính quyền thực dân

Cò Tây hoảng sợ, binh lính nao núng

Trời dần sáng, giờ Mão (5h sáng) đang đến gần, thời điểm xuất binh tiến về quận lỵ Tân Châu đã gần kề (rạng ngày 9 tháng Giêng âm lịch năm Kỷ Mão, tức 27.2.1939). Thế nhưng, Đạo Tưởng và đoàn quân chưa kịp rời khỏi am thì quân đội và chính quyền quận Tân Châu đã vào tới. Nhờ sự mật báo từ nửa đêm, nên khi trời vừa hừng sáng, cò Tây Laffont, quận trưởng Tân Châu Nguyễn Văn Đề cùng 2 tiểu đội lính (khoảng 30 tay súng), theo bờ kinh Vĩnh An tiến vào am, nơi Đạo Tưởng hội quân. Cò Laffont và quận Đề cùng đám lính súng ống sẵn sàng dàn hàng ngang trước am, còn Đạo Tưởng và các tín đồ thì giáo mác sẵn sàng bên trong.

Thấy hai chiếc đầu lâu trên trụ cột và xác của vợ chồng hương tuần Hiếm nằm trước bàn thờ thần nghi ngút khói nhang, cò Laffont và quận Đề nhận ra tính nghiêm trọng của vụ việc. Quận trưởng Nguyễn Văn Đề phát loa kêu gọi Đạo Tưởng và tín đồ buông khí giới, ai về nhà nấy. Họ từ tốn mời ông Đạo Tưởng trao đổi công việc với đại diện chính quyền. Khi được mật báo Đạo Tưởng “nổi loạn”, cò Laffont và quận trưởng Đề chưa hình dung hết tính nghiêm trọng, dữ dội của vụ việc, vì vậy họ đã đến đây với lực lượng không thật hùng hậu, trong khi đó, lực lượng của Đạo Tưởng lên đến hàng ngàn người, dáo mác tua tủa. Cò Laffont và quận trưởng Đề cảm thấy nao núng, họ phải cố kềm chế, giữ giọng nhỏ nhẹ, thuyết phục Đạo Tưởng và các tín đồ giải tán.

Bỏ ngoài tai những lời khuyên của cò Laffont và quận trưởng Đề, ông Đạo Tưởng trong sắc phục vàng, áo tay rộng, đầu phủ bịch cân, lưng thắt dây đen, chân mang giày vàng, cổ đeo lòng thòng xâu chuỗi bồ đề, đưa tay trấn an các tín đồ, xong oai vệ tiến về phía nhà cầm quyền, cất giọng oang oang: “Các ông cứ bắn đi, bắn vào ngực tôi đây này. Súng đạn của các ông không lủng được da thịt của quân “Minh Hoàng Quốc” này đâu. Bắn đi!”. Cả rừng tín đồ im lặng theo dõi cuộc đối đầu giữa “minh chủ” và đại diện nhà cầm quyền thực dân. Sau lời thách thức của Đạo Tưởng, súng vẫn im, phía cò Tây chưa dám động thủ. Trong hàng ngũ tín đồ đã bắt đầu có tiếng reo vui vì phép thuật nhiệm mầu của ông Đạo đã phát huy tác dụng.

Thực ra, cò Tây Laffont và quận trưởng Nguyễn Văn Đề vừa không muốn xảy ra một vụ giao tranh đẫm máu, vừa cảm thấy ngán sợ đoàn quân tín đồ hàng ngàn người với dao kiếm trong tay, nên họ lựa lời ôn hòa. Quận trưởng Đề cất tiếng: “Ba Quốc, nếu ông có điều gì bất bình và cần thiết, thì truyền lịnh cho tín đồ giải tán, rồi đến thiềm đường để giải quyết. Khuyên bổn đạo chớ nên nóng nảy, bạo động, sẽ gây nhiều chuyện không hay…”. Nghĩ rằng quận trưởng Đề và cò Tây sợ, Đạo Tưởng nói lớn hơn: “Người Lang Sa cướp nước chúng tôi đã lâu rồi. Vậy Tây nên thức thời, trả nước lại cho chúng tôi tự lèo lái, vì chúng tôi có một “triều đại” đủ sức đảm đương việc nước. Võ khí của Pháp là đồ vô dụng, không thể phạm vào mình đồng da sắt của chúng tôi. Các ông cứ việc bắn đi!”. Rồi ông ra lệnh cho tín đồ sẵn sàng tiến lên tiêu diệt quân cướp nước.

Thấy tình thế có vẻ nguy hiểm, ông quận trưởng Đề hô to: “Các người hãy buông khí giới đầu hàng, nếu không sẽ có hại…”. Đạo Tưởng bỏ ngoài tai những lời khuyên, phất tay áo, chỉ về phía mấy chục lính quận đang lăm lăm súng trường trong tay, nói: “Hỡi các binh sĩ, các người đã lầm đường lạc lối nên giúp sức cho giặc Tây xâm chiếm nước Nam. Trẫm nay vốn thiệt là “Minh Hoàng” được bề trên cử xuống đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ yên đất nước. Các người hãy trả áo lại cho bọn Lang Sa cùng ta tiêu diệt kẻ thù”. Mấy chục binh sĩ nghe Đạo Tưởng khuyên đã tỏ ra nao núng, quận trưởng Đề phải đến xốc lại đội hình. Bất thình lình, Đạo Tưởng quay mặt về phía các tín đồ thân cận và ra lệnh “Tiến” thật dứt khoát. Cả rừng tín đồ đồng loạt trụ bộ, chĩa gươm giáo, tiếng hô vang như sấm rền.

Súng Tây bất lực(?)

Trước tình thế cực kỳ nguy hiểm, cò Laffont và quận Đề dù đạn đã lên nòng, nhưng vẫn tìm phương án ít nguy hiểm nhất. Khẩu rulô của cò Laffont cất lên trời, bắn chỉ thiên để thị uy. Cả rừng tín đồ nín thở theo dõi. “Cốp”. Đạn không nổ! Viên đạn lép đầu tiên của cò Laffont như bằng chứng cho lòng tin của Đạo Tưởng và tín đồ rằng, súng đạn Tây trở nên vô hiệu trước tài phép của Đạo Tưởng. Đắc thắng với việc họng súng của cò Laffont bị “bịt miệng”, Đạo Tưởng cười vang nói: “Các người thấy chưa, súng đạn của Tây nào có ý nghĩa gì đối với ta. Các đệ tử, tiến lên!”. Gươm giáo tua tủa trong tay, hàng ngàn đệ tử hô vang tiếng gầm thét, vừa chậm chậm tiến về phía trước.

Để vụ việc không trở nên quá nghiêm trọng, vượt ngoài tầm kiểm soát, cò Laffont và quận trưởng Nguyễn Văn Đề chỉ cho 2 tiểu đội lính quận bắn xuống đất để uy hiếp tinh thần các tín đồ, không để xảy ra sát thương. Vì vậy, đạn chỉ cày lên sân cỏ, bốc khói, nhưng chẳng trúng ai. Đội quân của Đạo Tưởng vừa nhảy tránh đạn vừa xông lên như đám lân vừa đạp xác pháo vừa cất cao đầu. Giữa những làn đạn dày đặc mà không tín đồ nào bị hề hấn gì, điều đó càng làm cho các tín đồ ngông cuồng, tin tưởng rằng súng Tây đã trở nên vô dụng trước tài phép của Đạo Tưởng. Họ bất chấp súng đạn, tiến về phía những họng súng còn ngút khói. Còn Đạo tưởng luôn cười đắc thắng khi súng Tây bắn chẳng trúng được các tín đồ. Khi mặt dần giáp mặt, ông Đạo Tưởng vừa lắc hai vai vừa bước, phất hai tay áo, mắt trợn trừng nhìn cò Laffont, quận trưởng Đề, hai bộ vuốt hùm của ông như muốn móc cả ruột gan quân thù.

Kết cục đẫm máu

Khi Đạo Tưởng còn cách cò Laffont độ 5 mét, một tiếng nổ đanh, gọn bất ngờ vang lên, họng súng rulô của cò Laffont bốc khói. Lần này, khẩu súng của tên cò thực dân đã nhả đạn. Thực ra, vì sợ sức mạnh của đám đông hàng ngàn người nên cò Laffont không dám nổ súng vào đoàn người, chỉ bắn chỉ thiên để thị uy. Nhưng vì quá sợ, vừa lùi vừa run, Laffont đã nổ súng ngoài ý muốn, viên đạn nhằm ngay ngực của Đạo Tưởng mà xuyên thủng. Ngay sau tiếng súng của cò Laffont là tiếng “hực” của ông Đạo Tưởng, các tín đồ giật mình quay nhìn về phía “Minh Hoàng Quốc”. Trước mắt họ, “minh chủ” đang loạng choạng, đưa tay ôm ngực, máu tràn đẫm cả chiếc áo vàng. Hai con mắt Đạo Tưởng nhìn trời trợn ngược. Rồi ông ngã xuống. Thấy thầy chết thảm, các tín đồ mất hết tinh thần, ùn ùn bỏ chạy. Bấy giờ, mấy chục khẩu súng của lính quận mới nã theo, làm hàng chục người ngã xuống.

Ngoài Đạo Tưởng và những tín đồ bị bắn chết, chính quyền quận Tân Châu còn truy bắt thêm khoảng 30 người. Họ bị đưa ra toà, một số bị tù ở Côn Đảo, trong đó có hai đứa con trai ông Đạo Tưởng là Lâm Quốc Huỳnh, Lâm Quốc Đạt… Về sau, những tín đồ đứng gần Đạo Tưởng trong giờ phút lâm chung kể lại, do Đạo Tưởng thấy cò Laffont và quận trưởng Đề cùng mấy chục tên lính có dấu hiệu bỏ chạy, nên ông đã chủ quan, không tập trung tinh lực, vì vậy mà súng bất ngờ nổ, đạn dễ dàng xuyên thủng ngực của Đạo Tưởng. Có ý kiến cho rằng, chính quận trưởng Đề đã nhờ một ông đạo khác cao tay hơn làm bùa hóa giải phép thuật của Đạo Tưởng… Nói chung, dù Đạo Tưởng đã bị súng Tây bắn chết rõ mười mươi, nhưng những tín đồ của ông không muốn tin vào điều tệ hại đó.

Giới đạo sĩ ở Thất Sơn lúc đó cũng bàn tán sôi nổi về cái chết của Đạo Tưởng. Họ cho rằng Đạo Tưởng có võ nghệ cao siêu nhờ học luyện bởi những thầy võ nổi tiếng ở Cao Miên, Xiêm La. Thuở ấy, dân Việt Nam rất ái mộ một dòng võ mới xuất phát từ 2 nước này. Khác với các phái võ du nhập từ Trung Quốc, hệ võ từ Cao Miên, Xiêm La mang màu sắc huyền bí hơn, nên dân Việt thường gọi là “võ bùa”, “vỏ ngải” vì những đường huyền khá đồng bóng, cùng những khả năng “siêu phàm” của họ.

Thực ra, sau này khi bộ môn yoga từ Ấn Độ du nhập vào nước ta, những khả năng huyền bí của “võ bùa” đã được giải mã. Khi người ta tập luyện đến mức nào đó – tập trung toàn bộ tinh lực – da thịt trở nên rắn chắc lạ thường, có thể chịu được vật nhọn đâm vào. Nhưng khả năng đó chỉ kéo dài một vài phút và cũng chỉ chịu đựng được những vật nhọn thông thường, chứ không thể chịu được súng đạn. Có lẽ Đạo Tưởng đã tập luyện đến mức khi gồng mình lên, dáo mạc đâm không thủng, vì vậy mà ông ta tin rằng súng đạn của Tây cũng phải chịu thua.

Xác của Đạo Tưởng sau đó đã được các tín đồ trung thành đem chôn phía sau Trường Tiểu học Tân Châu. Ban đầu, các tín đồ đến viếng đông đảo, về sau nhà cầm quyền hạn chế việc tu tập quanh mộ Đạo Tưởng, nên người viếng ít dần.

Theo LAO ĐỘNG ONLINE

Tags: ,