Chiến tranh và hòa bình trong thời đại trí tuệ nhân tạo

Bằng việc làm thay đổi các chiến lược quân sự và ngoại giao, trí tuệ nhân tạo sẽ trở thành yếu tố then chốt quyết định đến trật tự thế giới.

Chiến tranh và hòa bình trong thời đại trí tuệ nhân tạo

Tác giả: Henry A. Kissinger – chiến lược gia kỳ cựu, cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, đã qua đời vào năm 2023; Eric Schmidt – Chủ tịch Dự án Nghiên cứu Cạnh tranh Đặc biệt và là cựu Tổng giám đốc điều hành, Chủ tịch Google; Craig Mundie – nhà đồng sáng lập của Alliant Computing Systems và là cựu Cố vấn cấp cao cho Tổng giám đốc điều hành tại Microsoft.

Biên dịch: Trần Anh Khôi.

Không sợ hãi và thiên vị, AI mở ra khả năng mới về tính khách quan trong việc đưa ra những quyết định mang tính chiến lược. Tuy nhiên, con người cần phải đảm bảo sự chủ quan của mình trong quá trình triển khai AI để hướng tới việc sử dụng vũ lực có trách nhiệm. AI trong chiến tranh sẽ làm sáng tỏ những mặt tốt và xấu nhất của nhân loại, cũng như đóng vai trò là phương tiện tiến hành chiến tranh hoặc chấm dứt chiến tranh.

Trong quá trình định hình bản thân và ngăn cho bất cứ một quốc gia nào có thể đạt được sự thống trị tuyệt đối, cuộc đấu tranh lâu dài của nhân loại đã đạt đến trạng thái liên tục như thể một quy luật tự nhiên. Trong một thế giới mà chủ thể chính vẫn là con người, dù có được trang bị AI để phục vụ cho việc tham vấn, các quốc gia vẫn cần phải có một sự ổn định nhất định dựa trên các chuẩn mực hành vi chung, tùy thuộc vào sự thay đổi theo thời gian.

Tuy nhiên, nếu AI nổi lên như một tập hợp các thực thể chính trị, ngoại giao và quân sự độc lập, sẽ cần phải đánh đổi sự cân bằng quyền lực bấy lâu nay cho một bất cân bằng mới mà con người chưa từng khám phá. Sự hòa hợp quyền lực của các quốc gia dân tộc đã từng được duy trì bởi sự bình đẳng vốn có giữa các chủ thể. Một thế giới bất cân xứng, chẳng hạn như một số quốc gia áp dụng AI ở mức độ cao một cách dễ dàng hơn hẳn những quốc gia khác, sẽ trở nên khó đoán hơn rất nhiều. Trong trường hợp một số cá nhân có thể chống lại một quốc gia có khả năng áp dụng AI mức độ cao trong quân sự và ngoại giao, hoặc chống lại chính AI, những cá nhân đó có thể sẽ gặp khó khăn để tồn tại, chứ đừng nói đến việc cạnh tranh với chúng.

Mặc dù vậy, vẫn còn tồn tại những khả năng khác. Ngoài việc tìm kiếm sự an toàn, con người từ lâu đã tiến hành các cuộc chiến để tìm kiếm sự chiến thắng hoặc để bảo vệ danh dự của mình. Máy móc cho tới nay không có bất kỳ khái niệm nào về hai điều này. Chúng có thể sẽ không tham gia các cuộc chiến, mà ngay lập tức lựa chọn cách chuyển giao lãnh thổ được phân chia cẩn thận dựa trên các tính toán phức tạp, hoặc có thể tiến hành các cuộc chiến tranh đẫm máu để đạt được mục tiêu mà không quan tâm tới sinh mạng con người. Trong một kịch bản, loài người chúng ta có thể biến đổi và không còn những hành vi tàn bạo. Trong một kịch bản khác, công nghệ sẽ khuất phục loài người, khiến chúng ta quay trở lại quá khứ man rợ của mình.

Sự tiến thoái lưỡng nan về an ninh trí tuệ nhân tạo

Nhiều quốc gia đang tập trung vào việc “giành chiến thắng trong cuộc chạy đua AI”. Điều này là dễ hiểu bởi văn hóa, lịch sử, giao tiếp và nhận thức đã tạo ra những mối quan hệ ngoại giao đầy bất an và nghi kỵ giữa các cường quốc, với niềm tin rằng sự gia tăng lợi thế là điều mang tính quyết định trong bất kỳ cuộc xung đột nào trong tương lai và AI chính là lợi thế đó.

Để một quốc gia phát huy tối đa hóa vị thế của mình sẽ đặt ra điều kiện về một cuộc cạnh tranh tâm lý giữa các lực lượng quân sự, tình báo mà loài người chưa từng gặp phải trước đây. Mong muốn đầu tiên và rất dễ hiểu của bất kỳ cá nhân nào khi sở hữu AI siêu thông minh (một AI được giả định là thông minh hơn con người) đó là cố gắng đảm bảo rằng không một ai khác có được phiên bản mạnh mẽ này. Bất kỳ chủ thể nào cũng đều có lý khi mặc nhiên cho rằng đối thủ của mình, khi phải đối mặt với rủi ro và những bất an tương tự, sẽ hành động y như vậy.

Khi chiến tranh xảy ra trong một thời gian ngắn, một AI siêu thông minh có thể phá hoại, làm suy yếu và ngăn chặn những chương trình cạnh tranh khác. Ví dụ, AI hứa hẹn sẽ vừa tăng cường sức mạnh cho các loại virus máy tính thông thường trong khi vẫn có thể ngụy trang chúng một cách triệt để. Lấy ví dụ với sâu máy tính Stuxnet (vũ khí mạng đã phá hủy một phần năm máy ly tâm uranium của Iran năm 2010), một đặc vụ AI có thể phá hoại sự phát triển của đối thủ theo những cách không cần lộ diện, khiến cho việc truy lùng tung tích của nó trở nên vô vọng. Với khả năng thao túng điểm yếu tâm lý con người, AI cũng có thể kiểm soát các phương tiện truyền thông của các đối thủ và tạo ra vô số các thông tin sai lệch nghiêm trọng đến mức khơi dậy sự phản đối của quần chúng về quá trình phát triển năng lực AI của quốc gia đó.

Sẽ rất khó để các quốc gia có thể biết rõ về vị thế của mình so với những quốc gia khác trong cuộc chạy đua AI. Các mô hình AI lớn hàng đầu hiện đang được đào tạo trên các mạng lưới bảo mật, không kết nối với phần còn lại của Internet và được dự đoán sẽ sớm kết hợp với các siêu máy tính chạy bất khả xâm phạm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Bên cạnh đó, các trung tâm dữ liệu hiện đang được xây dựng dưới đáy đại dương rất có thể sẽ xuất hiện trên quỹ đạo xoay quanh Trái đất trong tương lai. Các tập đoàn hoặc quốc gia sẽ ngày càng “ẩn mình”, ngừng công bố các nghiên cứu về AI để không chỉ tránh tạo điều kiện cho những kẻ xấu, mà còn che giấu tốc độ phát triển của bản thân. Nhiều cá nhân thậm chí còn cố tình công bố các nghiên cứu gây hiểu lầm thông qua những lời bịa đặt đầy sức thuyết phục được tạo ra bởi AI nhằm bóp méo sự thật về quá trình phát triển của mình. Đã từng có một tiền lệ như vậy khi vào năm 1942, nhà vật lý Liên Xô Georgy Flyorov đã suy đoán chính xác về việc Hoa Kỳ đang chế tạo bom hạt nhân khi ông nhận thấy rằng cả Hoa Kỳ và Anh đều đột ngột ngừng xuất bản các bài báo khoa học về phân hạch nguyên tử. Ngày nay, cuộc chạy đua như vậy sẽ trở nên ngày càng khó đoán hơn do tính phức tạp và mơ hồ của việc đo lường tiến trình phát triển một sản phẩm trừu tượng như AI.

Bên cạnh đó, mặc dù nhiều người cho rằng các mô hình AI có quy mô càng lớn thì sẽ đem lại càng nhiều lợi thế cho người sở hữu, nhưng trên thực tế, một mô hình lớn hơn không phải lúc nào vượt trội trong mọi trường hợp và cũng chưa chắc sẽ chiếm ưu thế hơn các mô hình nhỏ được triển khai ở quy mô lớn. Các máy bay AI nhỏ hơn và chuyên biệt hơn có thể hoạt động giống như một phi đội bay không người lái, dù không thể phá hủy nhưng cũng đủ sức vô hiệu hóa một tàu sân bay lớn.

Về lợi thế tổng thể, điều này được đánh giá thông qua thành tích đạt được của một chủ thể trong một vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, cách thức đánh giá này đang không phù hợp với AI bởi nó chỉ đơn thuần đề cập tới quá trình học máy được nhúng trong một loạt các công nghệ chứ không phải một loại công nghệ duy nhất. Do đó, có thể hiểu rằng năng lực trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng có thể được thúc đẩy bởi các yếu tố hoàn toàn khác so với khả năng trong lĩnh vực khác, khiến cho việc tính toán thông thường về “lợi thế” là không phù hợp.

Ngoài ra, với sự bùng nổ của năng lực AI trong những năm gần đây, quá trình tiến bộ của nó không hề đi theo từng bước và dễ để dự đoán. Ngay cả khi một chủ thể được cho là “dẫn đầu” về lĩnh vực này trong một vài tháng hoặc năm, chỉ cần một bước đột phá về kỹ thuật hoặc lý thuyết trong một lĩnh vực then chốt tại một thời điểm quan trọng, thứ bậc của tất cả các bên có thể bị thay đổi hoàn toàn.

Trong một thế giới mà không nhà lãnh đạo nào có thể tin tưởng vào trí thông minh và bản chất nguyên thủy của mình, cũng như nền tảng của thế giới hiện nay, chúng ta không thể đổ lỗi cho hành vi của các chính phủ – thứ được tạo ra bởi sự hoang tưởng và ngờ vực quá mức. Các nhà lãnh đạo này sẽ đưa ra quyết định theo giả định rằng các nỗ lực của họ đang bị theo dõi hoặc đi chệch hướng do các thế lực thù địch gây ra. Trong kịch bản xấu nhất, sự tính toán về chiến lược ở tiền tuyến sẽ luôn là ưu tiên về tốc độ và tính bí mật hơn là sự an toàn. Các nhà lãnh đạo bị ám ảnh bởi không gì khác ngoài cái gọi là sự về nhì, do đó, họ có thể đẩy nhanh quá trình triển khai AI như một biện pháp răn đe chống lại sự gián đoạn bên ngoài.

Một mô hình chiến tranh mới

Trong gần như toàn bộ lịch sử loài người, chiến tranh diễn ra trong một không gian xác định mà ở đó các bên có thể nắm rõ tiềm lực và vị trí của nhau. Hai yếu tố này mang lại cho các bên cảm giác an toàn về mặt tâm lý và sự đồng thuận chung, từ đó hạn chế sát thương một cách có hiểu biết. Nói cách khác, chỉ khi các nhà lãnh đạo có chung nhận thức về cách tiến hành chiến tranh thì các lực lượng đối lập mới xác định được liệu có nên tiến hành một cuộc chiến hay không.

Tốc độ và tính cơ động là một trong những yếu tố dễ dự đoán nhất, làm nền tảng cho khả năng của bất kỳ thiết bị quân sự nào. Một ví dụ minh họa ban đầu là sự phát triển của pháo. Một trăm năm sau khi xây dựng, tường thành Theodosian đã bảo vệ Constantinople khỏi những kẻ xâm lược bên ngoài. Tới năm 1452, một kỹ sư pháo binh người Hungary đã đề xuất với Hoàng đế Constantine XI xây dựng một khẩu pháo khổng lồ, có thể bắn từ phía sau các bức tường phòng thủ để tiêu diệt những kẻ tấn công. Nhưng với sự tự mãn, cũng như không có phương tiện và tầm nhìn để hiểu được tầm quan trọng của công nghệ, vị hoàng đế đã bác bỏ đề xuất này. Thật không may cho ông, kỹ sư người Hungary hóa ra lại là một lính đánh thuê. Với việc thay đổi chiến thuật (và đổi phe), ông đã nâng cấp thiết kế của mình trở nên cơ động hơn khi có thể được vận chuyển bởi khoảng 60 con bò và 400 người tới với Sultan Mehmed II của Ottoman – đối thủ của hoàng đế Constantine XI, người đang chuẩn bị bao vây pháo đài không thể xuyên thủng này. Bằng việc thu hút sự chú ý của vị Sultan trẻ tuổi với tuyên bố rằng khẩu súng có thể “phá vỡ các bức tường của chính Babylon”, kỹ sư người Hungary đã giúp lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ phá vỡ các bức tường Theodosian chỉ trong 55 ngày.

Những sự kiện như vậy đã diễn ra nhiều lần trong suốt chiều dài lịch sử. Vào thế kỷ mười chín, tốc độ và khả năng cơ động đã thay đổi vận mệnh của nước Pháp, khi quân đội của Napoleon áp đảo châu Âu và sau đó là Phổ, dưới sự chỉ đạo của Helmuth von Moltke (cha) và Albrecht von Roon, đã tận dụng các tuyến đường sắt mới xây dựng để có thể điều động quân một cách nhanh chóng và linh hoạt hơn. Tương tự, chiến thuật Blitzkrieg của Đức cũng đã được sử dụng vô cùng hiệu quả để chống lại phe Đồng minh trong Thế chiến II.

“Chiến tranh chớp nhoáng” đã mang một ý nghĩa mới và trở nên phổ biến trong kỷ nguyên chiến tranh kỹ thuật số hiện nay. Tốc độ là tức thời. Kẻ tấn công không cần phải đánh đổi khả năng gây thương vong để duy trì tính cơ động bởi địa lý không còn là một hạn chế. Mặc dù sự kết hợp này phần lớn ủng hộ hành vi tấn công trong các cuộc tấn công kỹ thuật số, kỷ nguyên AI có thể chứng kiến sự gia tăng tốc độ phản ứng và cho phép việc phòng thủ ngang hàng với các cuộc tấn công mạng.

Trong chiến tranh động học, AI cũng sẽ thúc đẩy một bước tiến lớn nữa. Ví dụ, máy bay không người lái sẽ cực kỳ nhanh và cơ động một cách không tưởng. Khi AI được triển khai không chỉ để hướng dẫn một máy bay không người lái mà là toàn bộ đội bay, các “đám mây” drone sẽ được hình thành và di chuyển đồng bộ như một chỉnh thể duy nhất. Những máy bay không người lái này sẽ có thể tách và tái hợp một cách dễ dàng trong các ở mọi quy mô, giống như các lực lượng hoạt động đặc biệt tinh nhuệ được xây dựng từ các biệt đội có khả mở rộng dưới sự chỉ huy tối cao. Ngoài ra, AI sẽ cung cấp khả năng phòng thủ nhanh chóng và linh hoạt. Ví dụ, sẽ rất khó để có thể bắn hạ các đàn máy bay không người lái bằng vũ khí và đạn dược thông thường. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ bởi AI, chúng ta có thể tạo ra các vũ khí sử dụng năng lượng photon và electron giúp vô hiệu hóa các máy bay này bằng cách phá hủy vi mạch của chúng, tương tự như cách một cơn bão mặt trời có thể làm hỏng các vệ tinh trên vũ trụ.

Hơn nữa, vũ khí hỗ trợ AI sẽ trở nên chính xác chưa từng có. Giới hạn về sự hiểu biết địa lý của đối thủ từ lâu đã hạn chế khả năng và ý định của bất kỳ bên tham chiến nào. Nhưng sự kết hợp giữa khoa học và chiến tranh đã đảm bảo độ chính xác ngày càng tăng của các công cụ và AI được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều đột phá hơn. AI sẽ thu hẹp khoảng cách giữa ý tưởng ban đầu và kết quả thực hiện, bao gồm cả việc áp dụng vũ lực gây chết người. Cho dù là trên đất liền, trên biển hay trên vũ trụ, máy móc sẽ sở hữu khả năng giết người cực kỳ chính xác và có tác động không giới hạn. Giới hạn duy nhất của sự hủy diệt tiềm tàng này sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự kiềm chế của con người và chính máy móc.

Như vậy, thời đại AI của chiến tranh sẽ chủ yếu được thu hẹp lại thành sự đánh giá không phải về khả năng của đối thủ mà là về ý định và sự ứng dụng chiến lược của họ. Trong thời đại hạt nhân, chúng ta đã bước vào giai đoạn như vậy—nhưng động lực và ý nghĩa của nó sẽ trở nên rõ nét hơn nhiều khi AI chứng minh được giá trị của nó như một vũ khí chiến tranh.

Với công nghệ giá trị như vậy, con người thậm chí có thể không còn là mục tiêu chính trong chiến tranh do AI hỗ trợ. Trên thực tế, AI tiến hành các cuộc chiến tranh ủy nhiệm mà không cần có sự tham gia của con người, khiến các cuộc chiến ít thương vong hơn mà vẫn mang tính quyết định. Vấn đề kiểm soát lãnh thổ có vẻ sẽ không thể gây nên các cuộc đụng độ AI, nhưng các trung tâm dữ liệu cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật số thiết yếu thì có.

Khi đó, việc đầu hàng sẽ không xảy ra khi quân số của đối phương giảm đi hay kho vũ khí của họ trống rỗng mà chỉ khi lá chắn silicon của những người sống sót không còn khả năng bảo vệ các tài sản công nghệ của họ. Chiến tranh có thể phát triển thành một trò chơi sinh tử hoàn toàn về mặt cơ học, với yếu tố quyết định là sức mạnh tâm lý của con người (hoặc AI), đòi hỏi sự đấu tranh mạo hiểm hoặc đầu hàng để ngăn chặn sự hủy diệt hoàn toàn.

Thậm chí, ngay cả động cơ chi phối các cuộc chiến cũng sẽ trở nên xa lạ ở một mức độ nào đó. Nhà văn người Anh GK Chesterton đã từng nói rằng “người lính thực thụ chiến đấu không phải vì anh ta căm thù những thứ trước mắt, mà là vì anh ta yêu những thứ ở phía sau lưng mình”. Một cuộc chiến AI không có khả năng liên quan đến tình yêu hay lòng căm thù, chứ đừng nói đến lòng dũng cảm của một người lính. Tuy nhiên, ẫn có thể tồn tại bản sắc và lòng trung thành—mặc dù bản chất của những bản sắc và lòng trung thành đó có thể không giống với bản sắc và lòng trung thành ngày nay.

Sự tính toán trong chiến tranh là tương đối đơn giản: bên nào cảm thấy không thể chịu đựng được nỗi đau của trận chiến trước thì sẽ bị chinh phục. Ý thức về những thiếu sót của bản thân trong quá khứ đã tạo ra sự kiềm chế trong con người. Tuy nhiên, nếu không có nhận thức như vậy cũng như không có cảm giác đau đớn, thì điều gì có thể kiềm chế được AI khi chúng được đưa vào chiến tranh, và điều gì sẽ kết thúc các cuộc xung đột mà nó gây ra. Một AI khi chơi cờ vua, nếu không được thông báo về các quy tắc kết thúc của trò chơi, nó có thể sẽ chơi đến quân cờ cuối cùng.

Tái cấu trúc địa chính trị

Kỷ nguyên của loài người gần như tuân theo một quy luật tự nhiên nào đó, như Kissinger đã từng nói, một cá nhân “có sức mạnh, ý chí, động lực về trí tuệ và đạo đức để định hình toàn bộ hệ thống quốc tế theo các giá trị của riêng mình”. Sự sắp đặt quen thuộc nhất của nền văn minh nhân loại chính là hệ thống Westphalia theo cách hiểu thông thường. Tuy nhiên, ý tưởng về quốc gia dân tộc có chủ quyền này chỉ mới xuất hiện cách đây vài thế kỷ, thông qua cái được gọi là Hòa ước Westphalia vào giữa thế kỷ XVII. Đây không phải là đơn vị tổ chức xã hội được định sẵn và có thể không còn phù hợp với thời đại AI. Thật vậy, khi những thông tin sai lệch và sự phân biệt đối xử làm mất niềm tin vào sự sắp đặt đó, AI có thể đặt ra thách thức cố hữu đối với quyền lực của các chính phủ. Bên cạnh đó, AI cũng có thể thiết lập lại vị trí tương đối của các bên cạnh tranh trong hệ thống hiện nay. Nếu sức mạnh của nó được sử dụng bởi chính các quốc gia dân tộc, nhân loại có thể buộc phải tiến tới tình trạng bá quyền trì trệ, hoặc một trạng thái cân bằng mới giữa các quốc gia dân tộc được tạo ra bởi AI. Nhưng công nghệ này cũng có thể chỉ là chất xúc tác cho một quá trình chuyển đổi cơ bản hơn – sự chuyển đổi sang một hệ thống hoàn toàn mới, trong đó các chính phủ sẽ buộc phải từ bỏ vai trò trung tâm của mình trong cấu trúc chính trị toàn cầu.

Một trường hợp khác là việc các công ty sở hữu và phát triển AI tích lũy được quyền lực xã hội, kinh tế, quân sự và chính trị. Các chính phủ sẽ buộc phải đấu tranh với vị thế vừa là người ủng hộ cho các tập đoàn tư nhân, hỗ trợ về quân sự, ngoại giao và kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của các công ty trong nước, vừa phải là người ủng hộ cho các công dân hoài nghi về tham vọng và những bí mật của các công ty đó, tạo ra một mâu thuẫn không thể giải quyết. Trong khi đó, các tập đoàn có thể hình thành một liên minh được xây dựng dựa trên những lợi thế, lợi nhuận, hoặc dựa trên một triết lý chung về phát triển các hệ thống AI nhằm củng cố sức mạnh của mình. Các liên minh doanh nghiệp này có thể đảm nhận các chức năng một quốc gia truyền thống, nhưng thay vì tìm cách mở rộng lãnh thổ, họ sẽ phát triển các mạng lưới kỹ thuật giúp gia tăng ảnh hưởng của mình.

Trong một trường hợp khác, sự khuếch tán mã nguồn mở một cách không kiểm soát có thể tạo ra các nhóm chủ thể nhỏ với năng lực AI tuy không quá lớn nhưng đủ để quản lý, cung cấp và tự bảo vệ mình trong một phạm vi giới hạn. Khi các nhóm chủ thể này từ chối các thẩm quyền đã được thiết lập cho sự phi tập trung tài chính, giao tiếp và quản trị, thì tình trạng vô chính phủ dưới sự hỗ trợ bởi công nghệ có thể chiếm ưu thế. Hoặc các nhóm như vậy có thể kết hợp theo khía cạnh tôn giáo. Xét cho cùng, về phạm vi tiếp cận, Cơ đốc giáo, Hồi giáo và Ấn Độ giáo đều tồn tại lâu hơn bất kỳ quốc gia nào trong lịch sử. Trong thời đại sắp tới, giáo phái tôn giáo, hơn cả quyền công dân quốc gia, có thể được coi khuôn khổ phù hợp hơn cho bản sắc và lòng trung thành.

Trong cả hai viễn cảnh này, dù bị chi phối bởi các liên minh doanh nghiệp hay bị phân tán thành các nhóm tôn giáo rời rạc, “lãnh thổ” mới nơi mà mỗi nhóm sẽ tuyên bố chủ quyền và chiến đấu—sẽ không phải là các vùng đất trên thực tế mà sẽ là trên không gian số, nơi tìm kiếm lòng trung thành của người dùng. Mối liên kết giữa những người dùng này và các quản trị viên sẽ phá vỡ khái niệm truyền thống về quyền công dân, và thỏa thuận giữa các thực thể sẽ không giống như các liên minh thông thường.

Theo truyền thống, các liên minh được hình thành bởi các nhà lãnh đạo cá nhân và phục vụ cho mục đích tăng cường sức mạnh của một quốc gia trong trường hợp chiến tranh. Ngược lại, viễn cảnh về quyền công dân và liên minh, hay thậm chí là các cuộc chinh phạt hoặc thập tự chinh được định hình xoay quanh các ý kiến, niềm tin và bản sắc chủ quan của những người dân thường trong thời bình sẽ đòi hỏi một quan niệm mới (hoặc rất cũ) về đế chế. Nó cũng sẽ yêu cầu đánh giá lại về các nghĩa vụ liên quan đến việc tuyên thệ trung thành và cái giá phải trả cho các lựa chọn rút lui, nếu thực sự còn tồn tại bất kỳ sự lựa chọn nào trong một tương lai được kiểm soát bởi AI.

Hòa bình và quyền lực

Chính sách đối ngoại của các quốc gia dân tộc đã được xây dựng và điều chỉnh thông qua sự cân bằng giữa chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực. Sự cân bằng mà các nhà lãnh đạo của chúng ta đạt được này không phải là trạng thái cuối cùng mà chỉ là các chiến lược nhất thời cho thời đại của họ. Với mỗi thời đại mới, sự căng thẳng đã tạo ra biểu hiện khác nhau về những gì cấu thành nên trật tự chính trị. Sự phân chia giữa việc theo đuổi lợi ích và việc theo đuổi các giá trị—hoặc giữa lợi ích của quốc gia dân tộc và lợi ích toàn cầu—là một phần trong quá trình tiến hóa không ngừng. Trong suốt quá trình lịch sử, chính sách ngoại giao của các quốc gia nhỏ đều cho thấy rõ ưu tiên về nhu cầu tồn tại. Tuy nhiên, các đế chế, hay các nước lớn, thì phải đối mặt với một tình thế khó khăn hơn khi cần hiện thực hóa thêm các mục tiêu khác.

Kể từ thuở sơ khai của nền văn minh, khi các đơn vị tổ chức của con người phát triển, họ đồng thời đạt được những cấp độ hợp tác mới. Nhưng ngày nay, có lẽ vì quy mô của những thách thức trên toàn cầu cũng như sự bất bình đẳng giữa các quốc gia và bên trong các quốc gia, một phản ứng dữ dội chống lại xu thế này đã nổi lên. AI có thể chứng minh được sự tương xứng với những yêu cầu về quy mô quản lý của con người sẽ còn lớn hơn nữa, thông qua việc nhìn nhận chi tiết và chân thực về những mục tiêu của các quốc gia và cả sự tương tác của thế giới.

Phục vụ cho cho các mục đích chính trị trong và ngoài nước, AI được hy vọng có thể thực hiện nhiều điều hơn thay vì chỉ làm sáng tỏ những sự đánh đổi cân bằng. Lý tưởng nhất là nó có thể cung cấp các giải pháp tối ưu mới và mang tính toàn cầu, hoạt động trong một khoảng thời gian dài hơn với độ chính xác cao hơn, giúp điều hòa các lợi ích cạnh tranh của con người. Trong thế giới tương lai, trí thông minh của máy móc có thể điều hướng xung đột và thiết lập đàm phán hòa bình, làm sáng tỏ hoặc thậm chí vượt qua các tình huống khó xử truyền thống.

Tuy nhiên, nếu AI thực sự giải quyết được những vấn đề mà con người hy vọng có thể tự mình làm được, chúng ta có thể sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về việc quá tự tin cũng như thiếu tự tin. Trong trường hợp đầu, một khi chúng ta hiểu được giới hạn khả năng tự điều chỉnh của chính mình, sẽ khó để ta thừa nhận rằng đã trao quá nhiều quyền lực cho máy móc trong việc xử lý các vấn đề hiện sinh về hành vi của con người. Đối với trường hợp sau, việc nhận ra rằng chỉ cần loại bỏ quyền tự quyết của con người là đủ để giải quyết những vấn đề khó khăn nhất có thể bộc lộ rõ những thiếu sót trong thiết kế của con người. Nếu hòa bình chỉ là một lựa chọn tự nguyện và đơn giản, thì sự không hoàn hảo của chúng ta đã phải trả bằng những cuộc chiến tranh liên miên. Việc biết rằng có một giải pháp mà ta chưa bao giờ tìm ra sẽ làm tổn thương lòng kiêu hãnh của con người.

Về vấn đề an ninh, không giống như sự thay thế con người trong các nỗ lực khoa học hay học thuật, chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận sự vô tư của máy móc là cần thiết hơn so với tính tư lợi của con người—cũng giống như con người dễ dàng nhận ra nhu cầu cần có người hòa giải trong một cuộc ly hôn đầy tranh cãi. Một số đặc điểm tồi tệ nhất của chúng ta sẽ cho phép chúng ta thể hiện một số đặc điểm tốt nhất của mình: rằng bản năng hướng đến lợi ích cá nhân của con người, ngay cả khi phải hy sinh người khác, có thể giúp chúng ta chấp nhận sự vượt trội của AI so với chính mình.

Theo NGHIENCUUCHIENLUOC.ORG 

Tags: , ,