Các diễn ngôn về thể chế chính trị của Champa

Tài liệu tham khảo:

E (1890), “Légende historiques des Cham”, trong Excursions et Reconnaissances XIV (32), pp. 145 – 206.
B (1977), “Exchange at the upstream and downstream ends: Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia”, trong Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from prehistory, history, and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michigan, pp. 39-52.
Bertrand M. S (2009), “Lương Ninh: Lịch sử Vương quốc Champa”, trong Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 138 – 156.
E (1905), “Notes sur les Chams: La Chronique Royale”, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient(BEFEO), tome 5, pp. 377 – 382.
Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon.
Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Finot L (1903), “Notes d’épigraphie: III Stèle de Cambhuvarman a Mi Son”, BEFEO, tome 3, pp. 206 – 213.
Finot L (1904), “Notes d’épigraphie : VI. Inscriptions du Quang Nam”, BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115.
Finot L (1904), “Notes d’épigraphie XI: Les inscriptions de Mi-Sơn”, BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977.
Đỗ Trường Giang (2009), “Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
Đỗ Trường Giang (2011), “Biển với lục địa – thương cảng Thị Nại Champa (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á (Thế kỷ XX – XV)”, trong Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 285 – 314.
Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon.
Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Lafont P-B – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXIV, Paris.
P-B (2011), Vương quốc Champa: địa dư – dân cư – lịch sử, IOC – Champa, San Jose.
M. Bruce (2001), “Colonial and post-colonial constructions of ‘Champa’”, trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 1-53.
Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong: lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
Vũ Đức Liêm (2016), “Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.
G (1928), Le Royaume de Champa, Les Éditions: G. Van Oest, Paris.
Majumdar R. C (1985), Champa: History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far – East 2nd – 16thcenturies AD, Book III: Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.
Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử ký Toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de L’EPHE, Paris.
Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris.
Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris.
Po Dharma (1988), “Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67.
Po Dharma (1994), “Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam”, trong Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, 53 – 64.
Po Dharma (2013), Vương quốc Champa: Lịch sử 33 năm cuối cùng, IOC – Champa, San Jose.
Tran Ky Phuong – Vu Huu Minh (1991), “Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th – 15th centuries”, trong Ancient town of Hoi An, Foreign Languages Publishing House, Hanoi, 77-81.
Trần Kỳ Phương (2004), “Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam: Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế.
Trần Kỳ Phương (2008), “‘Riverine exchange network’: An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam”, trong biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.
Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm tại Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
Quach-Langlet. T (1988), “Le cadre historique de l’ancien Campa”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague. Paris (Travaux du CHCPI), pp. 27 –
Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
M (2011), “‘Mandala Champa’ seen from Chinese documents”, trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, 127 – 132.
Southworth W (2011), “River Settlement and Coastal trax to wards a specific model of early state development in Champa”, trong The Cham of Vietnam: History, Society, and arts, Bruce Lockhart and Tran Ky Phuong (ed),NUS Press, Singapore, pp. 102 – 119.
Tambiah J. (1976), World Conqueror and World Renounser: A study of Buddhism and Polity in Thailand Against a Histotical background, Cambridge University Press.
Keith (1992), “The early kingdoms”, trong The Cambridge history of Southeast Asia, Vol.1, From early times to c.1800, Cambridge University Press.
Taylor (1998), “Surface Orientations in Vietnam: Beyond histories of nation and Region”, The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978.
Nguyễn Hữu Thông (2008), “Từ mô hình Mandala nghĩ về cấu trúc xã hội của vương quốc Champa”, trong Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, tháng 3, tr. 7 – 22.
Nguyễn Hữu Thông (2015), “Sông Ba: giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù”, trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45
Trần Quốc Vượng (1998), “Từ cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam, tr. 37 – 40.
Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Vickery M (2011), “Champa Revised”, trong The Cham of Vietnam: History, Society, and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420.
Wolters O.W. (1982), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies, New York.

——————————–

Chú thích

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 28; Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 53.
[2] Về vương quốc Champa xem: G. Maspero (1828), Le Royaume de Champa, Les Éditions: G. Van Oest, Paris; Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon; T. Quach-Langlet (1988), “Le cadre historique de l’ancien Campa”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, Travaux du CHCPI, Paris, pp. 27-47; Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội; M. Vickery (2011), “Champa Revised”, trong The Cham of Vietnam: History, Society, and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420; P-B. Lafont (2011), Vương quốc Champa: địa dư – dân cư – lịch sử, IOC – Champa, San Jose.
[3] Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon; Taylor (1998), “Surface Orientations in Vietnam: Beyond histories of nation and Region”, The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978; Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong: lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh; Vũ Đức Liêm (2016), “Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.
[4] Về các bia ký Chăm xem: L. Finot (1903), “Notes d’épigraphie: III Stèle de Cambhuvarman a Mi Son”, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), tome 3, pp. 206 – 213; (1904), “Notes d’épigraphie: VI. Inscriptions du Quang Nam”, BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115; (1904), “Notes d’épigraphie XI: Les inscriptions de Mi-Sơn”, BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977; R. C. Majumdar (1985), Champa: History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far – East 2nd – 16th centuries AD, Book III: Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.
[5] Về các biên niên sử Trung Hoa có đề cập đến Champa xem: Lương Ninh (2004), sđd, tr. 306 – 343. Về các biên niên sử Việt Nam xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội; Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế; Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử ký Toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội.
[6] Về các thư tịch Chăm xem: P-B. Lafont – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXIV, Paris; Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris; Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm tại Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[7] E. Aymonier (1890), “Légende historiques des Cham”, Excursions et Reconnaissances XIV (32), pp. 145 – 206.
[8] Như trên, p. 149.
[9] E. Durand (1905), “Notes sur les Chams: La Chronique Royale”, BEFEO V, pp. 377 – 382.
[10] Như trên, pp. 380 – 382.
[11] G. Maspero (1928), sđd.
[12] Như trên, tr. 24 – 25.
[13] Dohamide – Dorohiem (1965), sđd.
[14] Dohamide – Dorohiem (1965), sđd, tr. 120.
[15] Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de L’EPHE, Paris.
[16] Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris, pp. 60 – 61. Bản dịch của công trình này xem: Po Dharma (2013), Vương quốc Champa: Lịch sử 33 năm cuối cùng, IOC – Champa, San Jose.
[17] Po Dharma (1988), “Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67; Po Dharma (1994), “Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam”, trong Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, p. 55. Xem thêm: Po Dharma (2013), sđd, tr. 53 – 54.
[18] Bruce M.Lockhart (2011), “Colonial and post-colonial constructions of ‘Champa’”, trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 1 – 53.
[19] Po Dharma (2013), sđd, tr. 54 – 55.
[20] Lương Ninh (2004), sđd, 152.
[21] M. S. Bertrand (2009), “Lương Ninh: Lịch sử Vương quốc Champa”, trong Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 138 – 156.
[22] Xem thêm: Nguyễn Hữu Thông (2009), Chưa hẳn đã có một vương quốc Champa hoàn chỉnh ở miền Trung Việt Nam, đăng trên: http://bmktcn.com/index.php?option=com_content&task=view&id=2817&Itemid=182 (Truy cập ngày 20/3/2017). Và bài trao đổi: Lâm Thị Mỹ Dung (2009), Những nhận thức thiếu cập nhật và sai lầm về vương quốc Champa, đăng trên http://dzunglam.blogspot.com/2009/09/nhung-nhan-thuc-thieu-cap-nhat-va-sai.html (truy cập ngày 20/3/2017).
[23] J. Tambiah (1976), World Conqueror and World Renounser: A study of Buddhism and Polity in Thailand Against a Histotical background, Cambridge University Press.
[24] O.W.Wolters (1982), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies. Theo Đỗ Trường Giang, Giáo sư O.W. Wolters là người đầu tiên đã giải thích Mandala như là một thuật ngữ để diễn tả một hệ thống chính trị kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông Nam Á. Thuật ngữ mandala cũng được sử dụng để miêu tả một trạng thái chính trị riêng biệt và thường là không ổn định trong một khu vực địa lý được xác định mơ hồ vì không có những đường ranh giới cố định, tại đó những trung tâm nhỏ hơn vì lý do an ninh nên có xu hướng vươn ra mọi phía, các mandala sẽ mở rộng hay thu hẹp lại theo cách thức này. Mỗi mandala bao gồm một số chính quyền chư hầu (tributary rulers), nhưng mỗi chư hầu như vậy có thể từ bỏ địa vị chư hầu của họ khi có cơ hội và nỗ lực xây dựng một mạng lưới chư hầu của riêng họ. Dẫn theo: Đỗ Trường Giang (2009), “Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 59 – 67.
[25] Keith W.Taylor (1992), “The early kingdoms”, The Cambridge history of Southeast Asia, Vol.1, From early times to c.1800, Cambridge University Press, pp. 153 – 154.
[26] Nguyễn Hữu Thông (2008), “Từ mô hình Mandala nghĩ về cấu trúc xã hội của vương quốc Champa”, trong Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, tháng 3, tr. 7 – 22.
[27] Tran Ky Phuong – Vu Huu Minh (1991), “Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th – 15th centuries”, trong Ancient town of Hoi An, Foreign Languages Publishing House, Hanoi, pp. 77 – 81.
[28] Trần Quốc Vượng (1998), “Từ cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam, tr. 37 – 40; Xem thêm Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr. 332 – 338.
[29] Momoki Shiro (2011), “‘Mandala Champa’ seen from Chinese documents”, trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 127 – 132.
[30] Theo mô hình này, “hệ thống trao đổi ven sông” có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch quốc tế. Ngoài ra, cũng có những trung tâm ở thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn hàng có gốc từ những vùng xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản xuất ở các vùng không họp chợ bởi các cư dân sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc thượng nguồn. Nguồn hàng này, chủ yếu là lâm sản, được tập trung trao đổi ở các chợ phiên vùng trung du, rồi vận chuyển về các khu chợ sầm uất hơn ở vùng hạ lưu gần cảng thi, sau đó lại được tập trung về cho các thương nhân cư trú ở cảng thị để xuất khẩu. Mỗi tiểu quốc trong liên bang có riêng một “hệ thống trao đổi ven sông” như vậy. Xem thêm: B. Bronson (1977), “Exchange at the upstream and downstream ends: Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia’, trong Economic exchange and social interaction in Southeast Asia: Perspectives from prehistory, history, and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michigan, pp. 39-52.
[31] Trần Kỳ Phương (2004), “Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam: Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế; Xem thêm: Tran Ky Phương (2008), “Riverine exchange network”: An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam”, in trong biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.
[32] W. Southworth (2011), “River Settlement and Coastal trax to wards a specific model of early state development in Champa”, trong The Cham of Vietnam: History, Society, and arts, Bruce Lockhart and Tran Ky Phuong (ed), NUS Press, Singapore, pp. 102 – 119.
[33] Đỗ Trường Giang (2011), “Biển với lục địa – thương cảng Thị Nại Champa (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á (Thế kỷ XX – XV)”, trong Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 285 – 314.
[34] Nguyễn Hữu Thông (2015), “Sông Ba: giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù”, trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45.

Tags: ,