Rủi ro và cơ hội đối với Việt Nam từ cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược, Việt Nam mong muốn hòa bình, ổn định trong khu vực để có thể tập trung phát triển kinh tế.

Tác giả: TS. Nguyễn Hùng Sơn – Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bài viết đăng trên Website Viện Hòa bình Hoa Kỳ (USIP)

Biên dịch: Bùi Toàn.

Trong những năm gần đây, khi cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ngày càng gia tăng, Đông Nam Á trở thành một trong những khu vực trọng điểm của cuộc cạnh tranh này. Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất phải hứng chịu các cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với một số cường quốc. Điều đó xuất phát từ ảnh hưởng ở đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, hay mỗi lần các cường quốc gặp vướng mắc và điều chỉnh lại mối quan hệ của họ khi các yếu tố địa chiến lược thay đổi, chẳng hạn như khi Hoa Kỳ và Trung Quốc cải thiện quan hệ vào đầu những năm 1970. Vì vậy, Việt Nam đặc biệt nhạy cảm với cuộc cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt này và thích ứng với tác động lên mối quan hệ của mình với các cường quốc.

Cạnh tranh chiến lược được nhìn nhận như thế nào ở Việt Nam?

Trong khu vực, cạnh tranh Mỹ-Trung thường được coi là sự cạnh tranh giữa các cường quốc quan trọng nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Nga cũng được coi là một đối thủ cạnh tranh quyền lực quan trọng, do Việt Nam có mối quan hệ lâu dài với Nga – và nhận thức về ảnh hưởng của Moscow trong khu vực. Mối quan hệ cạnh tranh tam giác này được hình thành trong Chiến tranh Lạnh và tiếp tục tạo nên bối cảnh toàn cầu ngày nay với những tác động quan trọng đối với Đông Nam Á.

Hàng hải là một lĩnh vực mà Việt Nam cảm thấy có sự cạnh tranh chiến lược nhiều nhất, xét đến những lợi ích đáng kể của Việt Nam ở Biển Đông và sự mở rộng nhanh chóng sức mạnh hải quân của Trung Quốc ở đó. Nhưng ảnh hưởng của Nga cũng ngày càng trở nên nổi bật hơn, đặc biệt kể từ sau cuộc xung đột Nga-Ukraine.

Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh ngày càng gia tăng về thương mại và công nghệ, đặc biệt khi Trung Quốc và Hoa Kỳ là hai đối tác thương mại lớn nhất của mình. Hà Nội lo ngại rằng một hệ thống thương mại thế giới phân cực và chia rẽ được hình thành trên cơ sở hạ tầng, quy tắc thương mại và tiêu chuẩn sản xuất khác nhau cũng như các khoáng sản quan trọng ngày càng độc quyền có thể gây tổn hại cho các nền kinh tế đa dạng và được kết nối tốt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Việt Nam cũng cảm nhận được tác động của tình trạng căng thẳng ngày càng gia tăng về quản trị toàn cầu và xây dựng thể chế thông qua các sáng kiến lớn liên tiếp về an ninh, phát triển, thương mại và cơ sở hạ tầng do các cường quốc đưa ra và lãnh đạo, chẳng hạn như một bên là Sáng kiến An ninh Toàn cầu của Trung Quốc và phía khác là Chiến lược Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương của Mỹ.

Quan điểm của Việt Nam về cơ hội và thách thức

Mặc dù cạnh tranh chiến lược đã làm gia tăng căng thẳng nhưng nhiều người trong khu vực tin rằng cạnh tranh là cần thiết để duy trì cân bằng quyền lực trong khu vực. Hầu hết các bài viết chính thức và hàn lâm về chủ đề này đều thảo luận về cách quản lý các rủi ro liên quan đến cạnh tranh nhưng không phủ định sự cạnh tranh. Tất cả đều hiểu rõ – mặc dù không được thừa nhận một cách chính thức ở Việt Nam – rằng nếu không có sự cạnh tranh này, khu vực sẽ bị thống trị bởi một trật tự đơn cực bá quyền, khiến ASEAN trở nên kém quan trọng hơn nhiều.

Cạnh tranh chiến lược có thể mang lại cho ASEAN quyền tự quyết và không gian chiến lược lớn hơn khi các cường quốc lớn và trung bình “xoay trục” sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và tăng cường sự quan tâm trong khu vực. Cạnh tranh chiến lược cũng mang lại cho các quốc gia thành viên ASEAN cơ hội đa dạng hóa mối quan hệ và duy trì quyền tự chủ chiến lược, đặc biệt là thông qua thương mại và giảm sự phụ thuộc, nhất là đối với Trung Quốc. Cạnh tranh trong một số lĩnh vực nhất định, chẳng hạn như công nghệ hoặc mô hình quản trị, có thể khuyến khích sự đổi mới và mang lại lợi ích cho toàn bộ cộng đồng toàn cầu.

Mặt khác, cạnh tranh chiến lược cũng khiến Đông Nam Á khó quản lý mối quan hệ với các cường quốc cạnh tranh hơn. Sự thiếu hụt lòng tin giữa các cường quốc có thể dễ dàng lan sang các bên thứ ba. Ví dụ, Việt Nam cảm thấy khó khăn hơn trong việc thúc đẩy hợp tác với một cường quốc mà không gây ra những nghi ngờ nhất định từ phía bên kia. Điều này đặc biệt thách thức vì Việt Nam có mối quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chẳng hạn, nhiều người ở Hoa Kỳ đã đặt câu hỏi về mục đích chiến lược của chuyến thăm sớm tới Trung Quốc của nhà lãnh đạo Việt Nam sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 20.

Chính sách “là bạn của tất cả” của Việt Nam thậm chí còn khó đạt được hơn khi các nước lớn ngày càng bất hòa. Sau cuộc xung đột giữa Nga-Ukraine nổ ra, Việt Nam chịu áp lực ngày càng tăng từ cả Nga và phương Tây để đứng về phía họ.

ASEAN, với tư cách là nền tảng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, có thể bị đặt trước những thách thức chưa từng có mà khối này không được tạo ra cũng như không được đào tạo để đối phó. ASEAN hoạt động ngày nay là một sản phẩm thời hậu Chiến tranh Lạnh, được thiết kế để tận dụng việc giảm bớt cạnh tranh về ý thức hệ và chiến lược nhưng không phải để đối phó với nó. ASEAN thường giỏi nói chuyện với các cường quốc về an ninh (đặc biệt là phi truyền thống) hơn là nói về các vấn đề an ninh với các cường quốc.

Trong khi cạnh tranh chiến lược giúp duy trì sự cân bằng tổng thể trong khu vực, Đông Nam Á lo ngại rằng các sự kiện, chẳng hạn như ở Biển Đông, có thể tuột khỏi tầm kiểm soát của họ và trở nên khó quản lý hơn. Người ta thường tin rằng việc Trung Quốc mở rộng các hoạt động ở Biển Đông sang các lĩnh vực mới, chẳng hạn như trên không hoặc dưới biển, là nhằm mục đích cạnh tranh với Mỹ và các đồng minh. Các quốc gia ven biển ASEAN thậm chí có rất ít khả năng để biết những gì đang diễn ra trong các lĩnh vực đó, chưa kể có ít ảnh hưởng hơn ở đó. Tuy nhiên, bất kỳ sự cố nào có thể xảy ra, chẳng hạn như vụ va chạm dưới biển của các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân (thậm chí không được trang bị vũ khí hạt nhân), sẽ có tác động sâu sắc đến an ninh và môi trường đối với các quốc gia ven biển.

Tuy nhiên, miễn là nó không có tổng bằng 0 và không chuyển thành đối đầu thì cạnh tranh chiến lược có thể là một động lực tích cực.

Lợi ích chung của ASEAN và lựa chọn của Việt Nam

Xét về bối cảnh chiến lược, lợi ích của Việt Nam cũng tương tự như các nước còn lại trong ASEAN: Giữ gìn hòa bình, ổn định, tập trung phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho người dân. Điều quan trọng nhất đối với Việt Nam – và đối với bất kỳ quốc gia thành viên ASEAN nào – là chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như sự độc lập và tự chủ của mình. Việt Nam mong muốn tận dụng tối đa cơ hội mà cạnh tranh chiến lược mang lại, đồng thời đề phòng những rủi ro tiềm ẩn.

Có nhiều lựa chọn dành cho các nước thành viên ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Đó là: cân bằng, phòng ngừa rủi ro, hợp tác, duy trì tính trung lập hoặc tự chủ chiến lược, giữ khoảng cách bình đẳng với các cường quốc, đầu tư vào chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế, hoặc thậm chí là chọn bên. Nhưng giống như nhà ngoại giao nổi tiếng của Singapore, Bilahari Kausikan đã nói, không có “điểm ngọt ngào cho Singapore”, cũng có thể không có “điểm ngọt ngào” cho ASEAN. Trong hội nghị bàn tròn riêng mà tôi (tác giả bài viết) tổ chức tại Học viện Ngoại giao Việt Nam vào năm 2023, cựu Thủ tướng Anh Tony Blair khẳng định rằng ASEAN cần luôn đặt câu hỏi làm thế nào tốt nhất để điều hướng cạnh tranh giữa các cường quốc vì sẽ không bao giờ có câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này.

Trên thực tế, các quốc gia thành viên ASEAN đã thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tất cả các lựa chọn chính sách nêu trên. “Công thức” riêng của mỗi quốc gia phụ thuộc vào tình trạng riêng biệt của mối quan hệ với các cường quốc, lợi ích quốc gia và tình hình trong nước.

Tuy nhiên, một số quan sát có thể được rút ra trên diện rộng.

Thứ nhất, việc áp dụng một số lựa chọn chính sách có thể sẽ phục vụ lợi ích quốc gia của các nước thành viên ASEAN hơn là một chính sách thống nhất theo bất kỳ hướng nào. Đó là do tính chất không chắc chắn của cạnh tranh chiến lược và mối quan hệ đa chiều phức tạp mà hầu hết các nước thành viên ASEAN đã phát triển với thế giới.

Thứ hai, tính trung lập thụ động không nên là lựa chọn hàng đầu của các nước thành viên ASEAN. Tính trung lập là không thể và không được mong muốn khi ASEAN quá gần, nếu không phải là sân khấu chính của cạnh tranh chiến lược và bị ảnh hưởng bởi nó đến mức ASEAN không thể tự biến mình thành không liên quan. Chính sách tự chủ chiến lược do ASEAN xác định – đôi khi được gọi là trung lập tích cực hoặc linh hoạt – sẽ là một lựa chọn chính sách khôn ngoan hơn nhiều và sẽ củng cố vai trò trung tâm của ASEAN.

Thứ ba, quyền tự chủ chiến lược không loại trừ việc “chọn bên” trong một số vấn đề nhất định, miễn là quyết định chọn bên phải dựa trên lợi ích và nguyên tắc của chính ASEAN chứ không phải của các nước lớn. Nói cách khác, nếu ASEAN hoặc các quốc gia thành viên đứng về phía một cường quốc trong một vấn đề nhất định thì thực tế đó không nên được hiểu là không phù hợp với nguyên tắc tự chủ chiến lược của ASEAN.

Các nước thành viên ASEAN cần bổ sung quyền tự chủ chiến lược bằng sự ủng hộ tích cực của chủ nghĩa đa phương và hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. ASEAN cũng cần tìm cách để trở nên linh hoạt và bền bỉ hơn, chẳng hạn như làm cho công thức ASEAN trừ X trở nên linh hoạt hơn và xác định lại “sự đồng thuận” trong quá trình ra quyết định dựa trên sự đồng thuận.

Vai trò của “Quyền lực khác”

Trong khi ASEAN phải đối mặt với thời gian đầy thách thức trong việc quản lý cạnh tranh chiến lược trong khu vực và duy trì quyền tự chủ chiến lược, thì các cường quốc tầm trung khác gần xa cũng đang gặp phải những vấn đề tương tự và đã tìm thấy những lợi ích chung khi tham gia vào ASEAN. Những lợi ích này nhằm duy trì trật tự dựa trên luật lệ, đặc biệt là luật pháp quốc tế; duy trì sự cân bằng quyền lực; đa dạng hóa các lựa chọn giao dịch; và tăng cường khả năng phục hồi lẫn nhau. Những lợi ích chung này thường được chuyển thành các chính sách chung và hoạt động hợp tác. Một số chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã được triển khai liên tiếp với các kế hoạch và nguồn lực cụ thể nhằm tăng cường sự tham gia với Đông Nam Á.

ASEAN nên tận dụng sự tham gia của “các cường quốc khác” để giúp các quốc gia thành viên thoát khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan về lựa chọn nhị phân vẫn còn lan rộng trong khu vực. Sự tham gia của các cường quốc khác sẽ củng cố hơn nữa nhận thức về trật tự thế giới đa cực, ít nhất là ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. ASEAN nên hợp tác với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Liên minh Châu Âu, Canada và các cường quốc bậc trung khác để thúc đẩy việc giải thích trật tự quốc tế dựa trên luật lệ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc và sự hiểu biết phổ quát về luật pháp quốc tế và được thực thi bằng ngoại giao và chủ nghĩa đa phương, đồng thời được hỗ trợ bởi khả năng phục hồi và năng lực tập thể để răn đe, đặc biệt là chống lại sự xâm lược và đe dọa.

Một khu vực mà sự tham gia của “các cường quốc khác” thường được tranh luận là ở Biển Đông. Sự sẵn sàng của các cường quốc tầm trung – như Australia, Nhật Bản, Ấn Độ hoặc một số quốc gia thành viên Liên minh châu Âu – tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông được coi là cơ hội để duy trì và thực thi trật tự dựa trên luật lệ trên biển nhưng cũng có thể được coi là một cơ hội nguồn làm gia tăng căng thẳng và nguy cơ xảy ra sự cố.

Ý kiến của tôi (tác giả bài viết) là nếu sự hiện diện nhằm mục đích xây dựng năng lực và các hoạt động được coi rõ ràng là thực thi pháp luật hơn là áp đặt vũ lực, thì điều đó nên được hoan nghênh. Ví dụ, các hoạt động hải quân được coi là thực hiện quyền tự do hàng hải là các hoạt động trung lập phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển và nên được coi là như vậy. Mặt khác, các hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kỳ, cái gọi là “tuần tra chung” nhằm khẳng định hoặc thách thức các yêu sách của một số quốc gia, cần phải minh bạch về nền tảng pháp lý mà các hoạt động đó được lên kế hoạch và tiến hành.

Kết luận

Đông Nam Á thường bày tỏ lo ngại về rủi ro của cạnh tranh chiến lược, đồng thời hạ thấp và thừa nhận sự cần thiết cũng như lợi ích của nó. Thay vì thụ động tìm cách tách mình ra khỏi cuộc cạnh tranh (kết quả là làm cho mình ít liên quan hơn), Việt Nam và rộng hơn là ASEAN nên tích cực tìm cách quản lý cuộc cạnh tranh và làm cho cuộc cạnh tranh trở nên “lành mạnh” bằng cách không khuyến khích cả hai cường quốc theo tâm lý được – mất. ASEAN không nên kiềm chế việc “chọn bên” một cách rõ ràng hơn khi nói đến các nguyên tắc mà họ ủng hộ mạnh mẽ, chẳng hạn như các nguyên tắc được đặt ra trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập, Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hoặc Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Các quốc gia thành viên ASEAN cũng cần phải chấp nhận rằng “kỷ nguyên vàng” cho hội nhập ASEAN mà các nước được hưởng trong ba thập kỷ qua đã thay đổi căn bản, đòi hỏi phải thực hiện các bước thích ứng táo bạo hơn.

Theo NGHIENCUUCHIENLUOC.ORG

Tags: , , ,