Loạn thầy cúng – bài toán chưa có lời giải cho Phật giáo Việt Nam

Điều rất rõ ràng là khi cúng bái phát triển, thì đạo Phật trở nên suy thoái. Ở đây, cần thấy mối quan hệ đặc biệt giữa một bên là cúng bái và một bên là tu học, hoằng pháp. Hai bên có thể cùng phát triển song song trong lòng Phật giáo, nhưng đồng thời cũng có mâu thuẫn.

Thầy cúng – bài toán chưa có lời giải cho Phật giáo Việt Nam

Đề cập đến vấn đề thầy cúng trong đạo Phật, chúng tôi không có ý định bênh vực cho “thầy cúng”, cũng không có ý vội vàng chỉ trích, mà chỉ muốn tìm hiểu thấu đáo vấn đề toàn diện và khách quan, để tìm đến những phương án giải quyết khả thi, phù hợp.

Nếu tìm nguyên do từ đâu sinh ra “thầy cúng”, thì điều chắc chắn là từ yếu tố bên ngoài cũng có, và từ chính Phật giáo trên bước đường hoằng hóa của mình cũng có. Dầu du nhập từ bên ngoài, nhưng một bộ phận Phật giáo đã chấp nhận thầy cúng. Vì vậy, chúng ta phải bàn luận vấn đề như một việc bên trong đạo Phật.

Thầy cúng hôm nay không phải từ trên trời rơi xuống đùng một cái, hay mới nhập khẩu từ nước nào, mà thầy cúng Việt Nam hôm nay phát sinh từ lịch sử hàng ngàn năm của Phật giáo Việt Nam. Thậm chí có thể bắt đầu từ thời điểm xa xôi hơn khi Phật giáo còn đi qua chặng đường Trung Quốc.

Cũng không phải Phật giáo Bắc Tông mới có thầy cúng. Xem những phim ma Thái Lan, Campuchia…, cũng thấy có nhà sư thực hiện các nghi lễ riêng để tác động đến ma quỷ, đến cõi âm, đến thế giới siêu nhiên theo thỉnh nguyện của tín đồ, không khác gì Phật giáo Bắc Tông. Có điều nhà sư Nam tông Thái Lan, Campuchia… dùng những động tác khác, ngôn ngữ khác mà thôi.

Đã là thầy cúng, nói chung là phải làm khác thường. Thầy cúng là làm việc tác động vào cõi âm, thần thánh, ma quỷ, Phật trời, nên không thể bình thường đơn giản như thường ngày. Không gian phải khác (trang trí hết sức đặc thù), y phục cũng khác (sặc sở hơn), âm thanh cũng khác (có thể thêm nhạc lễ). Tổng hợp tất cả lại thì cũng khá phức tạp. Đó là việc đương nhiên, ắt phải, không thể khác đi được. Nó phát sinh trong quá trình một bộ phận tu sĩ Phật giáo đáp ứng những yêu cầu của tín đồ vào những thời điểm nhất định và được duy trì tiếp nối.

Điều rất rõ ràng là khi cúng bái phát triển, thì đạo Phật trở nên suy thoái. Ở đây, cần thấy mối quan hệ đặc biệt giữa một bên là cúng bái và một bên là tu học, hoằng pháp. Hai bên có thể cùng phát triển song song trong lòng Phật giáo, nhưng đồng thời cũng có mâu thuẫn. Khi nghiêng về cúng bái, thì ắt có một sự lệch lạc nào đó. Ở đây, xin tạm dùng một cụm từ để thể hiện tình trạng người tu sĩ Phật giáo lúc làm thầy cúng, là “phù thủy hóa”. Trong cúng bái, nhà sư Bắc Tông lẫn Nam Tông đều toát lên một đặc điểm chung: có yếu tố ma thuật? Mà Phật giáo khi vướng vào những cái đó, thì không thể giữ được tính chất của một đạo trí tuệ. Đây là tình trạng trước chấn hưng Phật giáo.

Một trong những nội dung cơ bản của Chấn hưng Phật giáo là giải cúng bái, loại trừ thầy cúng. Quá trình chấn hưng Phật giáo là quá trình phân biệt thầy cúng và tăng sĩ, rõ nét nhất là ở Nam Bộ. Giáo hội Tăng già Nam Việt là quá trình một số vị Tăng sĩ thiên về tu học hoằng pháp tách rời khỏi hình thái thầy cúng, để lại một số ngôi chùa, một số vị thầy thiên về cúng bái.

Năm 1963, quá trình này trở nên sâu sắc hơn khi các vị là “thầy cúng” đứng ngoài Ủy Ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và có những hoạt động hợp tác tích cực với chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều này, dẫn đến những hệ quả tiếp theo ở Phật giáo miền Nam thời gian sau đó. Tiếp tục công cuộc chấn hưng Phật giáo một phần là tạo sự phân biệt giữa một số giáo hội Phật giáo bên ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Sự chia tách phân biệt này dẫn ít nhiều đến sự phân biệt và kỳ thị đối với phía được coi là thầy cúng.

Đây có thể coi là một cuộc thử nghiệm quan trọng giải quyết vấn đề thầy cúng. Kết quả tích cực cũng có mà kết quả tiêu cực cũng có. Một bên là Giáo hội tự hào với tầm vóc thời đại, với các tu sĩ được đào tạo từ Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ…, với trong tay một trường đại học, cho ra đời nhiều xuất bản phẩm, nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật, có một số không nhỏ Phật tử trí thức…

Và một bên là những giáo hội nắm trong tay quyền quản lý các chùa cổ, nhà sư thiên về cúng bái và những Phật tử có xu hướng tương ứng.

Hệ quả tiêu cực hiện lên rõ ràng, đó là sự chia cắt Phật giáo Việt Nam thành từng mảnh. Hệ quả tiêu cực cũng nằm ở chỗ là phía thầy cúng vẫn tồn tại và có những sự phát triển nhất định.

Mặt kết quả tiêu cực còn nằm ở chỗ, dù cắt rời ra hai phía, tách riêng với thầy cúng, nhưng mầm mống thầy cúng vẫn tiềm ẩn và trỗi dậy âm thầm trong lòng phía Giáo hội có trường đại học, có các thượng tọa tiến sĩ viết những công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh…

Như thế, cuộc thử nghiệm giải quyết vấn đề thầy cúng trong khoảng hơn 20 năm ở miền Nam không đạt được kết quả mong muốn. Đây là điều Phật giáo Việt Nam chúng ta cần chú ý, để rút ra những kinh nghiệm cần thiết.

Sau sự kiện thống nhất (giáo hội) năm 1981, sự chia cắt đã nói ở trên không còn. Tình hình lại ngả sang một hướng mới.

Thầy cúng như một yếu tố trong sinh hoạt Phật giáo có xu hướng trỗi dậy. Theo chúng tôi, nó không phải được đánh dấu bằng những sự kiện gần đây, mà sớm hơn, với một thiền sư học giả, một trong những sáng lập viên của trường đại học do Phật giáo quản lý tại miền Nam, đã dạy qua nhiều đại học lớn trên thế giới, tác giả hàng trăm cuốn sách, trong đó có nhiều công trình nghiên cứu giá trị và những tác phẩm best seller viết bằng tiếng Anh, hoằng hóa nhiều năm ở nước ngoài, trở lại Việt Nam tổ chức một đàn tràng cúng bái lớn chưa từng có. Lần đầu tiên, một Phật tử miền Nam như tôi được thấy một không gian cúng bái hết sức đặc biệt, trắng lớp cả sân chùa Vĩnh Nghiêm. Đến dự khai đàn và bế đàn có rất đông Phật tử là trí thức và thanh niên, những người hâm mộ thiền sư.

Ý nghĩa của việc này là gì? Thực sự, điều gì đã xảy ra? Đó là ranh giới thầy cúng – tăng sĩ giảng sư, đã hình thành mấy mươi năm trước đã xóa nhòa hoàn toàn? Cố gắng giải quyết vấn đề thầy cúng bằng cách tách rời, phân biệt cuối cùng đi đến một kết quả hết sức đặc biệt, có tính chất tiêu biểu điển hình, và đáng nói là cũng không do tác nhân bên ngoài nào.

Ghi nhận điều này, chúng tôi không có ý coi đó là điều không hay.

Đã đến như thế, thì việc cử nhân, tiến sĩ Phật học cuốn vào quá trình thầy cúng hóa là chuyện không tránh khỏi, không đáng ngạc nhiên.

Cũng như thế, trong bối cảnh kiêm nhiệm hiện nay, có vị giảng sư vừa rời bục giảng Học viện Phật giáo Việt Nam, thì đến ngay một đàn tràng cúng bái, đội mão mang hia, tay vẫn cầm giáo án đại học Phật học, cũng là điều bình thường.

Giải pháp chia tách thầy cúng bằng nhiều giáo hội mấy chục năm trước không xong nay thì làm sao tách rời thầy cúng – tăng sĩ học giả trong một con người.

Cách đây khoảng 30 năm, tôi cũng đã thấy một vị sư Nam tông trong phòng đầy sách vở, theo yêu cầu của thí chủ, thực hiện việc tác động đến cõi âm bằng cách “cảm xạ học”, thực chất cũng là một kiểu thầy cúng. Vị sư dùng một con lắc dao động treo dưới một sợi dây, cũng nhuốm màu ma thuật, không bình thường theo kiểu “phù thủy hóa” đã nói ở trên.

Vì đây là bài viết nêu vấn đề, ghi nhận vấn đề, cung cấp cho bạn đọc những cái nhìn phát hiện sự việc, nên xin phép chỉ nói đến đây.

Vấn đề có tầm vóc hàng thiên niên kỷ cho nên nói đến hướng giải quyết, thì cũng rất xa vời. Nếu có chăng, chúng ta hôm nay chỉ có thể đi từng chặng nhỏ, trên tiến trình giải quyết lâu dài và đầy khó khăn.

Theo MINH THẠNH / PHẬT TỬ VIỆT NAM

Tags: ,