Thần học giải phóng: Khi người Thiên Chúa giáo chấp nhận Karl Marx

Nhiều người ở Việt Nam đã nghe nói đến “thần học giải phóng”, nhưng có lẽ ít người biết đến nguồn gốc và những phương pháp thực hành trong trào lưu tôn giáo này.

Thần học giải phóng: Khi người Thiên Chúa giáo chấp nhận Karl Marx

Thần học giải phóng (liberation theology) bắt đầu hình thành vào cuối thập niên 1960 trong Giáo hội Công giáo La Mã ở Mỹ La-tinh. Thuyết thần học này đưa ra quan điểm mới là giáo hội có trách nhiệm giúp đỡ con người tự giải phóng cho chính mình khỏi sự đói nghèo và bất công đang xảy ra và đặc biệt phổ biến trong các nước Thế giới thứ ba. Những luận điểm chính của thần học giải phóng tán thành sự nhấn mạnh của Karl Marx về bất công xã hội.

Trong thập niên 1970-1980, số lượng tín đồ liên minh với người nghèo trong các hành động đấu tranh chính trị của thần học giải phóng ngày càng gia tăng và dẫn đến việc một số lãnh đạo của giáo hội bị giết chết trong khung cảnh bạo lực bao trùm Nam Mỹ. Vatican đã phản đối thần học giải phóng vì cho rằng phong trào này xa rời những quan tâm của Kitô giáo về thế giới bên kia cũng như dẫn đến nguy cơ lôi kéo giáo hội vào tranh chấp chính trị.

.

I. Lịch sử các khuynh hướng

Ở Việt Nam, tiếng “giải phóng” được gắn liền tới một phong trào chính trị giành độc lập tự do. Nhưng trong các ngôn ngữ phương Tây phương, từ “libération” không chỉ giới hạn trong lãnh vực chính trị. Nó cũng có nghĩa là “giải thoát”, một tư tưởng căn bản của Ấn giáo và Phật giáo. Từ đó được dùng trong Tân Ước cũng theo nghĩa luân lý tôn giáo, như Gio-an 8,32: “sự thật sẽ giải thoát (hay giải phóng) các con”. Nội dung chính của việc giải phóng là trả lại tự do cho người nào đó.

Có thể coi năm 1968, với Hội nghị lần II của các Giám Mục Mỹ Châu La-tinh họp tại Medellin, như là khởi điểm của thần học giải phóng, tuy những mầm mống đã được gieo từ trước. Ngoài những phong trào cách mạng chính trị tại Cuba, Chile vào đầu thập niên 60, một số học thuyết đã được quảng bá trong lòng quần chúng nhằm giải thích tình cảnh khốn cùng của tầng lớp người nghèo, tựa như thuyết “lệ thuộc” (teoria de la dependencia): sự chậm tiến tại thế giới thứ ba là sản phẩm của sự phát triển tư bản tại thế giới thứ nhất.

Về phía Giáo Hội, nhiều phong trào được thành lập, mạnh hơn cả là các “cộng đồng cơ bản”, nhằm thúc đẩy các Kitô hữu dấn thân trong việc giúp đỡ những người nghèo. Hội nghị các Giám Mục Mỹ Châu La-tinh họp tại Medellin, nhằm áp dụng Công đồng Vaticano II vào thực tại địa phương, đã ghi vào chương trình mục vụ những điểm sau: ưu tiên cho người nghèo; giải phóng toàn diện con người; phát triểc các cộng đồng cơ bản. Chính trong bối cảnh ảnh ấy mà thần học giải phóng ra đời, nhằm đề ra một đường hướng hoạt động cho Giáo Hội, dựa từ sự phân tích thực trạng của địa phương.

Trong số những người cha đẻ của thần học giải phóng phải kể đến: Gustavo Gutierrez, Juan Luis Segundo, Hugo Assman, Segundo Galilea, Ruben Alves.

Vào thập niên 70, tình hình chính trị, xã hội và kinh tế ở Mỹ Châu La-tinh thay đổi sâu đậm: Hầu hết các quốc gia đều do các quân nhân lãnh đạo, áp dụng chính sách đàn áp các phong trào cách mạng. Chính vì vậy mà cao trào giải phóng được phát triển mạnh trong các giới trí thức cũng như bình dân. Sự giải phóng không còn phải là khái niệm trừu tượng, nhưng cần phải được diễn tả ra hành động cụ thể.

Chính vào lúc mà thần học giải phóng được phổ biến không những tại Mỹ Châu La-tinh mà còn sang các lục địa khác cũng là lúc bắt đầu những chỉ trích ngay từ giữa hàng Giám Mục địa phương, và rồi vấn đề được bàn cãi tại Thượng Hội đồng Giám Mục 1974, cũng như những lần can thiệp của Bộ Giáo Lý đức Tin. Những chỉ trích ấy đã khiến một số người sáng lập thần học giải phóng cân nhắc lại chủ trương của họ, song cũng khiến cho một số tác giả khác trở thành cứng rắn hơn.

Từ đó nảy ra ít nhất là bốn khuynh hướng trong thần học giải phóng

1) Khuynh hướng mục vụ

Khuynh hướng này theo sát những văn kiện của Tòa thánh và hàng Giám Mục, nhấn mạnh đến sự “giải phóng toàn diện” con người, dựa trên Kinh Thánh. đường hướng mục vụ nhằm tới sự cải thiện con người, và không sử dụng đến những đường lối chính trị xã hội. Nhiều người coi Hồng Y Pironio, khi còn làm tổng thư ký của Hội nghị các Giám Mục Mỹ Châu La-tinh, như nhân vật tiêu biểu của nhóm này. Nhưng họ bị các khuynh hướng dưới đây đả kích là “thần thánh hóa, trừu tượng”.

2) Khuynh hướng cách mạng

Có lẽ đây là nhóm cực tả nhất trong thần học giải phóng. Biết như vậy nên chính họ cũng không muốn coi mình là thần học. Họ dùng thuyết Marxist để phân tích xã hội, ví dụ như coi lịch sử của Châu Mỹ La-tinh là lịch sử của cuộc áp bức thực dân – tư bản; tôn giáo bình dân là phó sản của sự vong thân (alienation) kinh tế. Tiêu biểu của nhóm này là Hugo Assman.

Bị chỉ trích là kiểu thần học chịu lệ thuộc quá nhiều bởi ý thức hệ, các tác giả của nhóm trả lời rằng việc xếp họ vào hàng thần học hay không là chuyện phụ, mối quan tâm chính của họ là làm cách mạng.

3) Khuynh hướng hành động lịch sử

Khác với nhóm thứ nhất, chỉ giới hạn vào quan điểm “giải phóng toàn diện” vào kế hoạch mục vụ của Giáo Hội, nhóm thứ ba chủ trương cần thực hiện sự giải phóng kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa đến các phong trào, cộng đồng. Họ dùng thuyết Marxist để phân tích thực tại theo một cách thức linh hoạt hơn.

Với họ, người nghèo được coi là một giai cấp, đối lập với giai cấp tư sản. Sự ưu tiên dành cho người nghèo được hiểu là lựa chọn một giai cấp và những xung khắc xã hội hay cả trong Giáo Hội cũng được giải thích theo quan niệm lệ thuộc và đấu tranh giai cấp.

So với nhóm thứ hai, họ nhìn nhận vai trò tích cực của tôn giáo bình dân trong tiến trình giải phóng. Khuynh hướng này được coi là tiêu biểu nhất cho thần học giải phóng.

4) Khuynh hướng nhân dân

Theo khuynh hướng này, vai trò chủ động của thần học không phải là người nghèo như khuynh hướng thứ ba, mà là nhân dân Mỹ Châu La-tinh. Nói đến nhân dân tức là nói đến các nền văn hóa của họ, các tín ngưỡng của họ. Chính vì vậy, để hiểu nhân dân, không chỉ dùng lối phân tích xã hội Marxist mà còn phải sử dụng các ngành nghiên cứu khác như lịch sử, nhân chủng học.

Ngoài ra, nhóm này còn để ý tới những biểu hiệu tôn giáo của người dân cũng như kiến thức bình dân vì đây cũng là những động lực giải phóng tiềm năng.

Tiêu biểu cho khuynh hướng này có thể kể đến L. Gera, Juan Carlos Scannone.

II. Phương pháp thần học

Tuy thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng các tác giả, đặc biệt trong nhóm thứ ba và thứ tư, áp dụng một số đường hướng chung trong công tác thần học:

1. Một yêu sách căn bản của thần học giải phóng là công cuộc giải phóng dân nghèo.

Khởi điểm của thần học là thực tại của dân nghèo: Ai muốn theo thần học phải dấn thân với người nghèo, sống đức tin giữa lòng họ, rồi kế đó mới suy tư thần học. Công cuộc suy tư vận dụng những dụng cụ khác nhau để phân tích, giải thích và đánh giá thế giới của lớp dân nghèo: Sự lệ thuộc kinh tế xã hội, sự lệ thuộc chính trị và văn hóa, đưa đến tình trạng bị tước đoạt những quyền lợi căn bản của con người, đến nỗi con người không còn được xử như là con người nữa.

Nhìn dưới ánh sáng của Phúc âm, thế giới của người nghèo, vì là hậu quả của sự lệ thuộc và bóc lột, phải bị coi là một tình trạng tội lỗi. Nó là sự thách đố cho Giáo Hội: Giáo Hội không những phải dấn thân để giải phóng những người bị bóc lột mà còn phải cải tạo chính lối sống đạo bình dân vốn nghiêng về thụ động, cam chịu số phận. Việc suy tư thần học nhằm giúp người tín hữu có một hành trang trong việc thực hành sự giải phóng.

2. Sự giải phóng tuy thường mang tính chất kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, nhưng dần dần cũng bao gồm cả sự giải phóng con người khỏi hết mọi hình thức nô lệ, tựa như tội lỗi.

Cách thức dấn thân vào công cuộc giải phóng đã nói được là đa dạng: Có người nhấn mạnh đến việc tham gia các phong trào cách mạng; người thì đề cao việc liên đới với những nhóm, cộng đồng, nhằm giúp cho họ trở thành những tác nhân xây dựng xã hội công bằng huynh đệ hơn.

Trên thực tế, khi đi vào hoạt động cụ thể các tác giả chia thành nhiều khuynh hướng khi bàn về thể chế chính trị cần thực hiện (có người thì muốn thiết lập xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng có người không ủng hộ thế chế này).

3. Một điều kiện quan trọng để có thể thực hành thần học giải phóng là cần ý thức những suy tư của con người có thể chịu ảnh hưởng của một ý thức hệ, một não trạng: Những nền thần học tại Âu Châu nảy sinh trong khung cảnh của thế giới tư sản, khác với thế giới và thực tại người nghèo tại Châu Mỹ La-tinh.

Chính vì vậy cần có cuộc cải hoán văn hóa, nhằm gột rửa đức tin khỏi những mâu thuẫn ấy. Mặt khác, khi phân tích thực trạng xã hội, nhà thần học không chỉ dùng đức tin mà còn cần sử dụng những kiến thức từ các khoa học xã hội nữa. Đây là một điểm khác biệt lớn với thần học truyền thống, thường chỉ sử dụng triết học, bởi vì nó chỉ nhắm tới việc tìm hiểu chân lý. Còn thần học giải phóng còn nhắm tới việc thay đổi xã hội nữa.

Điều này rất gần gũi với quan điểm xuyên suốt của tư tưởng Karl Marx: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” (Karl Marx – Luận cương về Feuerbach).

4. Trong viễn ảnh ấy, thần học giải phóng không chỉ là một đề tài của thần học mà còn là một phương pháp để thực hành thần học, một dự án thần học bao quát. Các đề tài thần học cổ truyền được viết lại dưới chiều hướng mới của sự giải phóng Kitô giáo. Đức Kitô xuất hiện như nhà giải phóng, và sứ điệp của Ngài kèm theo những ảnh hưởng xã hội chính trị; đức Maria là niềm hy vọng cho những người bị áp bức; Giáo Hội, gồm những cộng đồng cơ bản với những phần tử dấn thân phục vụ những người bị bắt bớ, bị bóc lột v..v…

Thần học giải phóng không chủ trương thay đổi nội dung của đức tin mà là suy nghĩ lại những kho tàng đức tin cổ truyền (Thánh Kinh, Thánh Truyền) từ kinh nghiệm sống đức tin của con người Châu Mỹ La-tinh.

Gustavo Gutierrez, một trong những người cha đẻ của thần học giải phóng, trong những tác phẩm gần đây của mình đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc chiêm niệm trong thần học giải phóng: “contemplativus in actione politica”. Nghĩa là công cuộc thay đổi xã hội phải bắt nguồn từ động lực của đức ái, và thực hiện nhờ sức mạnh của đức tin, kết quả của cuộc gặp gỡ đức Kitô, đấng làm chủ lịch sử.

Vượt ra ngoài châu Mỹ La-tinh, phương pháp của thần học giải phóng đã có ảnh hưởng lớn đến Thế giới thứ ba (châu Á, châu Phi), nhưng cũng được áp dụng tại vài nước phương Tây, như trong các phong trào giải phóng phụ nữ hay người da đen tại Mỹ.

S.T

Tags: , , ,