Chính sách kinh tế của Trung Quốc sau Đại hội XX và tác động đối với Đông Nam Á

 diễn ra từ ngày 16-22/10 được đánh giá là một trong những sự kiện chính trị quan trọng không chỉ với Bắc Kinh mà còn với cả phần còn lại của thế giới. Ngoài vấn đề nhân sự, Đại hội còn đưa ra những chỉ dấu cần thiết về chính sách kinh tế mà quốc gia tỉ dân thực hiện trong thời gian tới. Do Trung Quốc hội nhập chặt chẽ với Đông Nam Á, quỹ đạo kinh tế của Bắc Kinh chắc chắn sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến khu vực, đòi hỏi cần theo dõi sát sao để đưa ra định hướng phù hợp.

Chính sách kinh tế của Trung Quốc sau Đại hội XX và tác động đối với Đông Nam Á

Những yếu tố tác động đến chính sách kinh tế của Trung Quốc thời gian tới

Thứ nhất, tư tưởng Tập Cận Bình về kinh tế: Tư duy kinh tế Tập Cận Bình thể hiện ở những chủ trương, luận thuyết về chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tìm kiếm động lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Trung Quốc[1]. Tháng 10/2015, tại phiên họp toàn thể lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương khóa 18, Chủ tịch Tập Cận Bình đề xuất “triết lý phát triển mới”, đề cao sự đổi mới, phối hợp, xanh, cởi mở và chia sẻ; đánh dấu một sự thay đổi căn bản đối với toàn bộ bối cảnh phát triển của Trung Quốc. Tiếp đó, tại Hội nghị Công tác kinh tế Trung ương tháng 12/2017, khái niệm “Tư tưởng Tập Cận Bình về kinh tế xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới” lần đầu tiên được đưa ra và trở thành một cấu phần quan trọng của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Nội hàm của khái niệm này nhấn mạnh vào “7 kiên trì”, trong đó nổi bật là kiên trì tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với công tác kinh tế, đảm bảo nền kinh tế Trung Quốc phát triển theo phương hướng đúng đắn; kiên trì tuân thủ triết lý phát triển lấy con người làm trung tâm[2]. Kể từ đó, tư tưởng này đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, và tất yếu sẽ tiếp tục đóng vai trò điều hướng, dẫn dắt các hoạt động kinh tế nước này trong giai đoạn sắp tới, khi ông Tập vừa tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba trong lịch sử tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XX.

Thứ hai, yếu tố chính trị nội bộ. Trên thực tế, kinh tế và chính trị luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng của chính trị đối với kinh tế càng nổi bật. Cựu chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông từng khẳng định: “Công tác chính trị là huyết mạch của tất cả công việc kinh tế”[3]. Trong bối cảnh hiện tại, điều này có thể được hiểu rằng, chính sách kinh tế phải phục vụ cho việc bảo đảm sự lãnh đạo, tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời góp phần củng cố địa vị hạt nhân lãnh đạo của chủ tịch Tập Cận Bình trong nhiệm kỳ năm năm tới, thậm chí là lâu hơn. Nhìn vào hàng ngũ Ủy viên thường vụ Bộ chính trị mới tại Đại hội XX, không khó để nhận thấy đây đều là những gương mặt chia sẻ chặt chẽ tầm nhìn của ông Tập về tương lai của Trung Quốc cũng như kế hoạch chi tiết về mô hình quản trị và chiến lược phát triển mà vị lãnh đạo này đã thiết lập trong vài năm qua. Đáng chú ý, Bí thư thành ủy Lý Cường là người đã gợi ý một vài ý tưởng chính sách tại Chiết Giang mà sau đó đã trở thành “Tư tưởng kinh tế Tập Cận Bình” đang được áp dụng rộng rãi tại Trung Quốc hiện nay, cho thấy chính sách phát triển của Bắc Kinh sắp tới sẽ không có thay đổi lớn.

Thứ ba, những hành tựu và hạn chế từ việc triển khai chính sách kinh tế của Đại hội XIX. Sau Đại hội XIX, Trung Quốc đã đưa ra định hướng lớn “ba mới, một cao” với mục tiêu bứt phá, vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới; đề ra chiến lược “vòng tuần hoàn kép” nhằm phục hồi nền kinh tế sau đại dịch COVID-19, tạo đột phá trong ứng phó với những diễn biến phức tạp của kinh tế toàn cầu, nâng cao sức mạnh nội tại của nền kinh tế Trung Quốc và tìm kiếm các động lực mới nhằm chuyển từ “tăng trưởng cao” sang “phát triển chất lượng cao”[4]. Nhờ có chính sách đồng bộ và hợp lý, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc luôn đạt mục tiêu đề ra và ở mức cao so với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Năm 2021, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu lao đao vì đại dịch, Trung Quốc đã thành công “đi ngược dòng” với mức tăng trưởng GDP đạt 8,1%, được đánh giá là nhanh nhất trong một thập kỷ và vượt xa mục tiêu hàng năm của chính phủ. Đáng chú ý, tại buổi lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng Sản, Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức tuyên bố nước này đã hoàn thành mục tiêu “100 năm lần thứ nhất”, “xây dựng toàn diện xã hội khá giả trên mảnh đất Trung Hoa, giải quyết được vấn đề đói nghèo tuyệt đối mang tính lịch sử, hăng hái hướng tới mục tiêu phấn đấu 100 năm lần thứ hai là xây dựng toàn diện cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại”. Những thành tựu đó là “mốc son thắng lợi lịch sử được ghi vào lịch sử phát triển của dân tộc Trung Hoa”, tạo tiền đề vững chắc cho việc hoạch định chính sách kinh tế Trung Quốc thời đại mới. Song bên cạnh những kết quả tốt đẹp đã đạt được, Trung Quốc cũng đang phải “vật lộn” với những cơn đau đầu về tăng trưởng đình trệ do tác động của chính sách Zero-Covid, tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục, thị trường bất động sản sụt giảm, khoảng cách giàu – nghèo ngày càng gia tăng…Về kinh tế đối ngoại, nhiều kế hoạch của Trung Quốc, nhất là BRI bị gián đoạn hoặc gặp trở ngại chủ yếu do sự cản trở quyết liệt của Mỹ và phương Tây.

Thứ tư, tác động từ cục diện thế giới và khu vực. Bên cạnh các nhân tố bên trong, các yếu tố bên ngoài, như cục diện thế giới và khu vực cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Trung Quốc. Về cục diện thế giới và khu vực hiện nay có một số đặc điểm nổi bật như sau:

(1) Cạnh tranh chiến lược nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc trở nên quyết liệt, lan rộng ra nhiều lĩnh vực, tập trung vào khía cạnh kinh tế, trong đó chú ý đến thương mại quốc tế và vấn đề công nghệ. Thời gian qua, chính quyền Biden đã tăng cường các hành động kiềm chế Bắc Kinh bao gồm: thắt chặt một loạt quy định mới nhằm ngăn chặn Trung Quốc chiếm các công nghệ chủ chốt, công nghệ mới của Mỹ qua hoạt động đầu tư và xuất khẩu công nghệ; đẩy mạnh hoạt động phản gián trong lĩnh vực công nghệ; tăng thuế quan đối với các mặt hàng công nghệ của Mỹ…. Gần đây, ngày 7/10, Nhà Trắng còn ban hành các lệnh hạn chế xuất khẩu trên diện rộng nhằm cắt bỏ phần mềm, chip và máy móc quan trọng có thể hỗ trợ Trung Quốc phát triển chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và siêu máy tính, đẩy cạnh tranh Mỹ – Trung vào trạng thái căng thẳng mới. Tại bài phát biểu khai mạc Đại hội XX, Chủ tịch Tập Cận Bình đã dành một phần quan trọng để nói về cuộc so găng giữa Washington và Bắc Kinh trong cuộc chiến công nghệ, đưa ra chỉ dấu về tác động từ cuộc cạnh tranh này lên chính sách của Trung Quốc, trong đó có các lựa chọn kinh tế.

(2) Về các xu thế lớn của kinh tế thế giới: Trải qua hơn 40 năm tiến hành công cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc ngày nay đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và hệ thống quốc tế. Ở thời điểm hiện tại, Bắc Kinh là đối tác thương mại chủ yếu của hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời nắm giữ vị trí quan trọng trong nhiều thể chế kinh tế khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, chính sách kinh tế của quốc gia tỉ dân không thể không chịu ảnh hưởng từ những diễn biến nóng bỏng của kinh tế thế giới. Trước hết, đó là tiến trình toàn cầu hóa, đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế dù có phần chững lại do tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc xung đột Nga – Ukraine nhưng vẫn là xu thế lớn, chi phối sâu sắc đến tiến trình phát triển của nhân loại. Song song với đó, giữa bối cảnh lan rộng của các vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, an ninh năng lượng,… ngày càng có nhiều quốc gia đã thay đổi nhận thức và đề cao vai trò của bảo hộ sản xuất trong nước, nhấn mạnh tự chủ kinh tế như một cấu phần quan trọng của tự chủ chiến lược. Bên cạnh đó, những đột phá công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi những nền tảng truyền thống của kinh tế thế giới, đưa tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia, nhất là các cường quốc. Ngoài ra, tăng trưởng xanh cũng ngày càng được quan tâm khi các tác động của biến đổi khí hậu đang được cảm nhận ngày càng rõ nét, với mục tiêu hướng tới sự phát triển hài hòa, bền vững và bao trùm.

Những trọng tâm kinh tế của Trung Quốc sau đại hội XX

Báo cáo chính trị Đại hội XX khẳng định: “Sự phát triển của nước ta (Trung Quốc) bước vào thời kỳ cơ hội chiến lược tồn tại song song với rủi ro thách thức và nhân tố khó đoán định gia tăng, các sự kiện “thiên nga đen”, “tê giác xám” có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Trong bối cảnh đó, việc triển khai chính sách kinh tế của Trung Quốc cơ bản vẫn dựa trên nền tảng chính sách kinh tế đã triển khai sau Đại hội XIX, song sẽ có một số điều chỉnh nhằm tiếp tục phát huy những kết quả tích cực đạt được, khắc phục những hạn chế, giải quyết tốt những yêu cầu trong nước và thích nghi với bối cảnh quốc tế.

Về mục tiêu: Chính sách kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách chính trị – xã hội, chính sách đối ngoại và các chính sách khác nhằm hiện thực hóa các mục tiêu sau: (1) Xây dựng Trung Quốc thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp vào giữa thế kỷ; (2) Tăng cường năng lực cạnh tranh, ứng phó của Trung Quốc trong một môi trường quốc tế phức tạp, bao trùm bởi cạnh tranh chiến lược nước lớn, nhất là cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung; (3) Nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế.

Về nguyên tắc chỉ đạo: Kiên trì và tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công tác kinh tế. Kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, kiên trì cải cách mở cửa, kiên trì độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, kiên trì không thay đổi đường lối và chí hướng, không đi theo lối mòn bế quan tỏa cảng cứng nhắc, cũng không đi theo con đường thay đổi màu cờ, kiên trì đặt sự phát triển của đất nước và dân tộc vào vị trí trung tâm, kiên trì nắm chắc trong tay vận mệnh phát triển và tiến bộ của Trung Quốc[5].

Về nhiệm vụ trọng tâm:

Thứ nhất, ra sức “phát triển chất lượng cao” gắn liền với công cuộc hiện đại hóa kinh tế, hướng tới một nền kinh tế hùng mạnh, tự chủ và phát triển bền vững, thay vì phát triển tốc độ cao như thời kỳ trước. Đồng thời xây dựng hệ thống công nghiệp hiện đại với các biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa mới và thúc đẩy sức mạnh của Trung Quốc trong sản xuất, chất lượng sản phẩm, hàng không vũ trụ, giao thông vận tải,…Tiến hành hiện đại hóa nông nghiệp kiểu mới, cố gắng thúc đẩy sự hội nhập giữa thành thị và nông thôn.

Thứ hai, tiếp tục theo đuổi “thịnh vượng chung”, chia sẻ sự sung túc cho tất cả về cả vật chất lẫn văn hóa nhằm cải thiện hạnh phúc của người dân. Tập trung giảm chênh lệch giàu – nghèo, thực hiện các chính sách mở rộng trợ cấp sinh hoạt phí, trợ cấp thất nghiệp; nghiêm túc triển khai các gói chính sách trong lĩnh vực phân phối thu nhập.

Thứ ba, đẩy mạnh triển khai chiến lược “vòng tuần hoàn kép”,  trong đó tăng cường động lực nội tại và độ tin cậy của vòng tuần hoàn trong nước có ý nghĩa then chốt, yếu tố “bên trong” là chủ đạo, trụ đỡ và dẫn dắt sự phát triển của Trung Quốc. Đồng thời giữ vững quyết tâm và ý chí mở rộng mở cửa, thúc đẩy cải cách và đổi mới đi vào chiều sâu, nỗ lực tháo gỡ trở ngại về thể chế và cơ chế ở cấp độ sâu.

Thứ tư, tập trung vào đột phá về công nghệ, thúc đẩy đổi mới các công nghệ cốt lõi và tăng cường khả năng nghiên cứu để đạt được khả năng tự chủ tự cường càng sớm càng tốt, coi đây là chỗ dựa chiến lược quan trọng. Tăng tốc phát triển cơ sở hạ tầng thông minh tốc độ cao, an toàn có thể kết nối tất cả các khía cạnh của nền kinh tế trực tuyến cũng như tạo ra đột phá trong các công nghệ phần mềm quan trọng để sớm đứng vào “hàng ngũ những quốc gia đổi mới nhất thế giới”.

Thứ năm, ưu tiên phát triển kinh tế xanh. Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh của phương thức phát triển, hoàn thiện chính sách và hệ thống tiêu chuẩn về thuế, tài chính, đầu tư và giá cả để hỗ trợ phát triển xanh, phát triển ngành công nghiệp xanh và carbon thấp. Đảm bảo bảo tồn các hệ sinh thái đa dạng, theo đuổi “cuộc cách mạng năng lượng” và thúc đẩy sử dụng than sạch và hiệu quả.

Thứ sáu, tăng cường xây dựng “Vành đai và con đường” chất lượng cao, ngăn ngừa và giải quyết các rủi ro kinh tế – tài chính, xác lập các tiêu chuẩn công nghiệp, tiến tới các chuẩn mực thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Gây dựng các mối quan hệ hợp tác chia sẻ lợi ích, củng cố lòng tin chiến lược để nâng tầm uy tín của BRI. Thúc đẩy quốc tế hóa đồng nhân dân tệ, đóng góp vào việc nâng cao sức mạnh mềm Trung Quốc.

Thứ bảy, tham gia sâu rộng vào sự phân công và hợp tác của ngành sản xuất toàn cầu, nhấn mạnh vào việc định hình năng lực dẫn dắt của Bắc Kinh trong chuỗi cung ứng, đảm bảo cục diện kinh tế và quan hệ kinh tế thương mại quốc tế đa dạng, ổn định. Phát huy vai trò dẫn dắt của Trung Quốc tại các diễn đàn kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là trong các khuôn khổ có tầm quan trọng chiến lược như RCEP, AIIB,…

Một số vấn đề đặt ra đối với khu vực Đông Nam Á

Trung Quốc và Đông Nam Á từ lâu đã gây dựng mối quan hệ chặt chẽ trên mọi phương diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Đến năm 2020, Trung Quốc đã trở thành đối thương mại lớn nhất của ASEAN trong 12 năm liên tiếp và ASEAN cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc kể từ năm 2020. Đặc biệt, tại Hội nghị cấp cao ASEAN 37 giữa tháng 11/2020, Trung Quốc và 10 quốc gia Đông Nam Á đã cùng nhau ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP, khẳng định sự liên kết kinh tế sâu sắc, tương xứng với tầm vóc quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Vì lẽ đó, quỹ đạo phát triển kinh tế của Bắc Kinh sẽ có tác động không nhỏ đến khu vực, cả về tích cực lẫn tiêu cực.

Về mặt tích cực, Trung Quốc phát triển ổn định, mở cửa thị trường sẽ là một động lực quan trọng thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa kinh tế, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế thế giới, trong đó có kinh tế Đông Nam Á. ASEAN cũng sẽ được hưởng lợi từ sự ủng hộ của Trung Quốc đối với chủ nghĩa đa phương, nhất là các cơ chế đa phương về kinh tế.

Trong bối cảnh thế giới đang chia rẽ về công nghệ, đề cập tới cạnh tranh Mỹ – Trung, Đông Nam Á có thể trở nên quan trọng hơn với nền kinh tế thứ 2 thế giới do niềm năng sản xuất chíp bán dẫn. Trong đó, Singapore cùng Malaysia đang có nhiều ưu thế về nền tảng công nghệ và hạ tầng, Việt Nam có ưu thế về lao động có thể nắm bắt thời cơ để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và cung ứng công nghệ toàn cầu.

Thời gian tới, cùng với việc Trung Quốc tăng cường xây dựng BRI chất lượng cao, đồng thời tích cực sử dụng vòng tuần hoàn quốc tế, Đông Nam Á sẽ tiếp tục là mắt xích quan trọng và là điểm đến hàng đầu cho các nhà đầu tư Trung Quốc. Điều này mang lại cơ hội để các nước ASEAN tận dụng nguồn vốn nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, hướng vào phục vụ các mục tiêu phát triển của đất nước, từ đó đưa tới những thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế quốc gia.

Về mặt tiêu cực, khi Trung Quốc chú trọng hơn vào công nghệ và đổi mới để thúc đẩy tăng trưởng quốc gia, các nền kinh tế Đông Nam Á đứng trước sức ép phải nâng cấp mô hình sản xuất và chuỗi cung ứng để đáp ứng các yêu cầu và tiêu chuẩn cao hơn từ phía Bắc Kinh. Vấn đề này đòi hỏi nguồn lực đầu tư không hề nhỏ, trong khi hầu hết các nước Đông Nam Á có năng lực công nghiệp – công nghệ chậm cải thiện, do đó là thách thức rất lớn đối với khu vực.

Mặt khác, việc Trung Quốc tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế, kêu gọi các nước ASEAN tham gia các sáng kiến, các liên kết kinh tế do Bắc Kinh dẫn dắt sẽ làm gia tăng sự phụ thuộc của các nước này vào Trung Quốc về mặt kinh tế, từ đó dẫn tới nguy cơ lệ thuộc về chính trị, gây cản trở không nhỏ đến mục tiêu tự chủ chiến lược của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

Trên cơ sở nhận diện những thuận lợi – khó khăn nêu trên, để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hóa giải các thách thức, các nước Đông Nam Á cần nắm vững một số vấn đề sau:

Một là, có những chủ trương, biện pháp tích cực, chủ động nắm bắt thời cơ để cải thiện vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là trên bản đồ công nghệ thế giới. Muốn làm được như vậy cần không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Hai là, phát huy tối đa những điểm đồng trong chiến lược phát triển kinh tế với Trung Quốc, tạo đà vững chắc để đưa quan hệ kinh tế đi vào chiều sâu, mở ra cục diện thuận lợi cho đà đi lên của quan hệ chính trị và quan hệ trong các lĩnh vực khác.

Ba là, tham gia ủng hộ các sáng kiến của Trung Quốc với tinh thần tỉnh táo chiến lược, tận dụng tốt các cơ hội đầu tư và hợp tác kinh tế chặt chẽ để phát triển nhưng hết sức đề phòng nguy cơ lệ thuộc vào Bắc Kinh.

Bốn là, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Làm sâu sắc thêm các liên kết kinh tế với các đối tác khác cả ở cấp độ song phương lẫn đa phương nhằm đa dạng hóa sự lựa chọn.

Năm là, tham khảo một cách chọn lọc các chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt trong các vấn đề như nâng cao khả năng tự lực tự cường, xây dựng kinh tế xanh, hài hòa và cởi mở. Xây dựng lộ trình phát triển phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể của từng quốc gia, tránh áp dụng một cách rập khuôn, giáo điều dẫn tới chệch hướng, chệch đường.

————————–

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Xuân Cường – Hà Thị Hồng Vân, Tư tưởng Tập Cận Bình về kinh tế xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, Tạp chí Tài chính.
[2] Guang Tian – Yangkuo Li, On Xi Jinping’s Socialist Economic Thoughts, Theoretical Economics Letters.
[3] Three characteristics of Xi Jinping thought on socialist economy with Chinese Characteristics for a New Era, ICG.
[4] Phan Thị Thu Dung, Một số thành tựu nổi bật của Trung Quốc từ sau Đại hội XIX đến nay và tình hình Trung Quốc trước thềm Đại hội XX, Tạp chí Cộng Sản.
[5] Toàn văn Báo cáo Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (phần 2), Hội đồng Lý luận trung ương.

Theo LÃ THỊ THU HÀ / NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC

Tags: , , , ,