‘Bom nợ’ cản tham vọng Vành đai và Con đường của Trung Quốc

Trung Quốc tham vọng thông qua các khoản vay BRI để mở rộng sức ảnh hưởng kinh tế và chính trị. Nhưng vấn đề là chính Bắc Kinh cũng đang chật vật với gánh nặng nợ trong nước.

‘Bom nợ’ cản tham vọng Vành đai và Con đường của Trung Quốc

Một công nhân xây dựng Trung Quốc làm việc tại Colombo (Sri Lanka). Ảnh: New York Times.

Theo South China Morning Post, trong bài phát biểu tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định: “Trung Quốc sẽ cân đối chính sách, quy tắc và tiêu chuẩn với các nước đối tác trong Sáng kiến Vành đai và Con đường, đồng thời tăng cường hợp tác về cơ sở hạ tầng, công nghiệp, thương mại, đổi mới khoa học và công nghệ, sức khỏe cộng đồng và giao lưu văn hóa”.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thứ hai thế giới đang giảm tốc. Dịch Covid-19 cũng khiến bom nợ phình to. Câu hỏi đặt ra là liệu trong vài năm tới, Bắc Kinh có phải rút bớt các hoạt động quốc tế, nhất là việc tài trợ cho những dự án thuộc Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI).

Kế hoạch Vành đai và Con đường được ông Tập công bố trong chuyến thăm đến Kazakhstan hồi năm 2013. Sáng kiến nhằm kết nối hơn 70 quốc gia Á, Âu, Phi thông qua hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng đường sắt, đường bộ và đường biển. Mục tiêu của Bắc Kinh là thúc đẩy hợp tác khu vực và hội nhập kinh tế, từ đó mở rộng sức ảnh hưởng kinh tế và chính trị của Trung Quốc.

Tham vọng Vành đai và Con đường

Không có bất cứ số liệu chính thức nào về tổng số tiền đầu tư và cho vay của Bắc Kinh vào những dự án này. Tuy nhiên, theo hãng phân tích Refinitiv, trong quý I/2020, giá trị của các dự án BRI lần đầu vượt ngưỡng 4.000 tỷ USD. Trong số đó, khoảng 1.574 dự án với tổng giá trị 2.100 tỷ USD có sự tham gia của Trung Quốc.

Năm ngoái, Ngân hàng Thế giới ước tính từ năm 2013 đến năm 2018, khoảng 500 tỷ USD đã được đầu tư vào các dự án BRI ở 50 quốc gia. Trong số đó, khoảng 300 tỷ USD được tài trợ thông qua nợ công và được bảo lãnh công khai.

Trong khi đó, nợ doanh nghiệp phi tài chính tại Trung Quốc đã tăng lên 165% GDP vào quý III/2020. Cùng kỳ năm ngoái, tỷ lệ này là 150% GDP, theo Viện Tài chính Quốc tế (IIF).

Tốc độ tăng trưởng nợ của Trung Quốc không chỉ cao nhất trong số các nền kinh tế mới nổi, mà còn vượt xa những thị trường phát triển khác. Vào quý III, tổng nợ của Trung Quốc, gồm nợ hộ gia đình, nợ công và nợ doanh nghiệp, đã tăng từ 255% cùng kỳ năm ngoái lên 290%.

Tập đoàn bảo hiểm – tín dụng Euler Hermes (Pháp) dự báo 10 quốc gia châu Phi và châu Mỹ Latinh (Argentina, Brazil, Ecuador, Angola, Ai Cập, Ethiopia, Ghana, Kenya, South Africa và Zambia) sẽ chịu tác động lớn vào năm 2025 sau khi Trung Quốc rút dần nguồn tài chính. Hồi năm 2010, những quốc gia này đã hưởng lợi mạnh mẽ nhờ sự tham gia của Trung Quốc.

“Trung Quốc sẽ chọn lọc kỹ hơn các dự án mà họ có thể tài trợ, nhất là ở những nền kinh tế mới nổi”, South China Morning Post dẫn lời bà Alicia Garcia-Herrero, chuyên gia kinh tế phụ trách khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại hãng tài chính Natixis (Pháp), nhận định.

Theo ông Emre Tiftik, Trưởng bộ phận nghiên cứu tại IFF, mục tiêu của Trung Quốc là tăng cường kết nối với các nước BRI. Vì vậy, gánh nặng nợ trong thời điểm hiện tại khó xoay chuyển chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên, IFF vẫn tin rằng chính quyền ông Tập sẽ chú trọng hơn đến tính bền vững của dòng tiền liên quan.

“Chúng tôi nhận thấy gần một nửa dòng tiền xuyên biên giới liên quan đến BRI của Trung Quốc hướng đến các khu vực đang chịu rủi ro biến đổi khí hậu ở mức đáng kể. Trong bối cảnh Trung Quốc cam kết giảm lượng khí thải carbon xuống mức 0 vào năm 2060, dòng đầu tư BRI cũng sẽ thay đổi”, ông nhấn mạnh.

Trong năm nay, số lượng hợp đồng và tổng giá trị của các dự án mới cho thấy sự tham gia của Trung Quốc vào BRI đã giảm đáng kể. Nguyên nhân là ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Trong 3 quý đầu năm, số lượng hợp đồng mới được các doanh nghiệp Trung Quốc ký tại 61 quốc gia BRI đã giảm 29% so với cùng kỳ năm ngoái, theo Bộ Thương mại Trung Quốc.

Dữ liệu cũng cho thấy giá trị của các hợp đồng từ tháng 1 đến tháng 10 đã giảm 17,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, những khoản vay tại hai ngân hàng chính sách chính của Trung Quốc – Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu – cũng sụt giảm từ mức đỉnh hồi năm 2016.

Một phần nguyên nhân là sự chỉ trích từ những quốc gia BRI và chiến dịch xóa nợ của Bắc Kinh. Chiến dịch bắt đầu vào năm 2016, nhằm hạn chế việc các chính quyền địa phương, tổ chức tài chính và doanh nghiệp Trung Quốc vay quá nhiều. Cùng với đó là những lo ngại về cán cân thanh toán và mục tiêu chọn lọc kỹ càng hơn khi bơm vốn vào BRI.

Gánh nặng nợ

Tuy nhiên, ông Kanyi Lui tại công ty luật Pinsent Masons tin rằng gánh nặng nợ của Trung Quốc sẽ không tác động đáng kể đến việc tài trợ. Bởi những khoản đầu tư và cho vay này không giống các khoản nợ trong nước.

“Nhiều khoản vay BRI được chuyển đổi ngay lập tức thành hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc khi giải ngân. Số tiền cho vay không bao giờ thoát khỏi Trung Quốc”, ông giải thích. Thêm vào đó, những năm gần đây, các ngân hàng lớn của Trung Quốc cũng cải thiện đáng kể quy trình cho vay, nhằm chọn lọc hơn trong việc tăng tốc tài trợ BRI.

Dù vậy, kể từ năm 2008, nợ trong nước của Trung Quốc đã tăng với tốc độ trung bình khoảng 20%, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nước này. Hồi tháng 11/2008, Bắc Kinh công bố kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 4.000 tỷ NDT (586 tỷ USD) trong vòng 2 năm. Mục đích là chống lại tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Các biện pháp kích thích nhanh chóng hồi sinh nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng mặt khác, chúng cũng làm bùng nổ nợ trong nước. Kể từ năm 2016, Bắc Kinh đã tăng cường nỗ lực giảm nợ để hạn chế rủi ro tài chính. Tuy nhiên, dịch Covid-19 đảo ngược hoàn toàn kế hoạch này.

Nợ nước ngoài của Trung Quốc cũng tăng 3,7% so với cuối năm 2019 lên 2.130 tỷ USD trong tháng 6. Một phần nguyên nhân là Bắc Kinh thúc đẩy thu mua tài sản nước ngoài. Tuy nhiên, Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Trung Quốc vẫn khẳng định quy mô nợ nước ngoài “có thể kiểm soát được”.

Bà Agatha Kratz, Phó giám đốc hãng tư vấn Rhodium Group, khẳng định những khoản cho vay BRI của Trung Quốc chỉ chiếm một phần nhỏ trong danh mục cho vay của nước này. Tuy nhiên, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc có thể không muốn chi mạnh tay cho các khoản vay nước ngoài.

Nguyên nhân là nhà băng này đang mắc kẹt giữa hai mục tiêu. Một là thúc đẩy ngoại giao thương mại toàn cầu thông qua BRI, mục tiêu còn lại là hỗ trợ nền kinh tế nội địa bằng những khoản vay trong nước mới.

Một rào cản khác là làn sóng đàm phán lại. Theo báo cáo hồi tháng 10 của Rhodium Group, các yêu cầu đàm phán lại liên quan đến việc hoàn trả khoản vay đã tăng lên sau đại dịch. Tính đến cuối tháng 9, 12 quốc gia vẫn đang đàm phán với Bắc Kinh về những khoản vay có tổng trị giá lên đến 94 tỷ USD.

Theo báo cáo, do những khoản vay rủi ro cao trong quá khứ, Bắc Kinh đang muốn hạn chế và hợp lý hóa dòng tiền ở tương lai. Tuy nhiên, dịch Covid-19 chỉ khiến vấn đề này càng thêm trầm trọng.

Theo TRI THỨC TRỰC TUYẾN

Tags: , ,