Bàn về vấn đề tư duy phản biện

Tư duy phản biện (critical thinking) là một quá trình tư duy nhằm chất vấn các giả định hay giả thiết. Đó là cách để khẳng định rằng một nhận định nào đó là đúng hay sai, đôi khi đúng, hay có phần đúng. Nguồn gốc của khái niệm tư duy phản biện có thể tìm thấy trong tư tưởng của phương Tây đối với phương pháp tư duy theo lối Socrates của người Hy lạp cổ, còn ở phương Đông, là trong kinh Vệ đà của nhà Phật. Tư duy phản biện là thành tố quan trọng của mọi nghề nghiệp chuyên môn. Nó là một phần của quá trình giáo dục và ngày càng có tầm quan trọng đáng kể đối với sự tiến bộ của sinh viên thông qua đào tạo bậc đại học, tuy các nhà giáo dục vẫn còn tranh luận về ý nghĩa chính xác và tầm cỡ của vấn đề này.

Bàn về vấn đề tư duy phản biện

Tác giả: Russeli Brooker.

Biên dịch: Phạm Thị Ly.

Định nghĩa: Tư duy phản biện được miêu tả là “những suy nghĩ mang tính chất phản ánh có lý lẽ về việc tin vào điều gì hoặc làm điều gì”. Nó cũng được miêu tả là “tư duy về tư duy”. Trong phạm vi bộ khung khái niệm triết học của lý thuyết phản biện xã hội, tư duy phản biện thường được hiểu là sự gắn bó với thực tiễn xã hội và chính trị trong việc tham gia dân chủ, là ước muốn hình dung ra hay mở ra những quan điểm khác mà ta có thể lựa chọn; là ước muốn kết hợp những quan điểm mới hay những quan điểm cũ đã biến cải vào cách tư duy và hành động của chúng ta, cũng như ước muốn thúc đẩy khả năng phản biện nơi người khác.

Lịch sử và Từ nguyên học

Bộ khung triết học của tư duy phản biện có cội nguồn từ triết lý phân tích và chủ nghĩa kiến tạo thực dụng từ 2500 năm trước, như trong kinh Phật, chủ yếu là kinh Vệ đà và A-tì-đạt-ma; cũng như trong truyền thống Socrat của Hy Lạp, là những chất vấn nhằm tìm kiếm sự thật, được dùng để xác định xem những kiến thức dựa trên thẩm quyền liệu có thể được đánh giá lại một cách có lý lẽ với sự rõ ràng và nhất quán về logic hay không. Một ý nghĩa của thuật ngữ “phản biện” (critical) có nghĩa là “cốt yếu” (crucial) hay “liên quan tới những tiêu chí cốt lõi” (related to core criteria) có nguồn gốc từ thuật ngữ “tiêu chí” (kriterion) của người Hy lạp cổ, vốn có nghĩa như “tiêu chuẩn” (standards); một ý nghĩa thứ hai có nguồn gốc từ kriticos, có nghĩa “những nhận định sâu sắc, sáng suốt”( discerning judgment).. Tư duy phản biện trong bộ khung triết học này đã được triết gia ĐứcJürgen Habermas đưa vào áp dụng trong thập kỷ 1970.

Ý nghĩa

Tư duy phản biện làm rõ mục tiêu, khảo sát các giả định, nhận định về những giá trị tiềm ẩn bên trong, đánh giá các minh chứng, hoàn thành các hành động, và đánh giá các kết luận.

“Phản biện” như được dùng trong cụm từ “Tư duy phản biện” bao hàm tầm quan trọng hay tính chất trọng tâm của tư duy đối với một vấn đề, một câu hỏi, hay một mối quan ngại nào đó. “Phản biện” hay “phê phán” trong văn cảnh này không có ý nghĩa “phản đối” hay “tiêu cực”. Có vô số cách dùng hữu ích và tích cực của Tư duy phản biện, chẳng hạn như lập thức một giải pháp khả thi cho một vấn đề cá nhân phức tạp; cân nhắc, thảo luận kỹ với tư cách một nhóm người về những hành động nên tiến hành; hay phân tích những giả định và chất lượng của những phương pháp dùng để đạt tới mức độ tin cậy hợp lý về một giả thuyết cho trước nào đó …. Tư duy phản biện nảy sinh khi chúng ta nhận định, đánh giá, quyết định, hay giải quyết một vấn đề; nói chung, khi chúng ta phải suy tính xem mình phải làm gì hay tin vào điều gì, và làm điều đó một cách có lý lẽ và có suy nghĩ dựa trên thực tế. Đọc, viết, nói và nghe đều có thể diễn ra một cách có tinh thần phê phán hoặc không.

Tư duy phản biện là điều cốt lõi để trở thành một người đọc có trình độ hay một người viết thực sự có đẳng cấp. Trong mọi thuật ngữ chung nhất, tư duy phản biện được diễn tả là “ một cách để đưa ra mọi vấn đề của cuộc sống”

Kỹ năng

Các kỹ năng cốt lõi của Tư duy phản biện là quan sát, diễn giải, phân tích, suy luận, đánh giá, giải thích, và tri nhận tổng hợp. Có một mức độ đồng thuận đáng kể trong các chuyên gia về việc cho rằng một cá nhân hay một nhóm người có gắn bó với một tư duy phản biện mạnh mẽ thì sẽ hết sức chú trọng tới:

· Minh chứng qua quan sát
· Bối cảnh
· Những tiêu chí quan yếu và thiết thực để có một nhận định đúng
· Những phương pháp có thể áp dụng được hay kỹ thuật xây dựng nhận định
· Những cơ cấu lý thuyết có thể áp dụng được để hiểu những vấn đề và câu hỏi trong tầm tay

Ngoài việc sở hữu kỹ năng tư duy phản biện mạnh mẽ, người ta phải được chuẩn bị để sẵn sàng gắn việc giải quyết những vấn đề ấy với việc sử dụng những kỹ năng này. Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng.

Quá trình

Tư duy phản biện đòi hỏi những khả năng:

· Nhận ra vấn đề, tìm ra được những phương tiện khả thi để đáp ứng cho việc giải quyết những vấn đề đó
· Hiểu tầm quan trọng của ưu tiên hóa và trật tự ưu tiên trong việc giải quyết vấn đề
· Thu thập những thông tin thiết yếu và sắp xếp theo một trật tự nhất định
· Nhận ra những giả định và giá trị không được nêu rõ
· Lĩnh hội thấu đáo và dùng ngôn ngữ một cách rõ ràng, chính xác, sáng suốt
· Diễn giải các dữ liệu nhằm đánh giá các minh chứng và luận điểm
· Nhận thức được sự tồn tại (hay không tồn tại) của những mối quan hệ logic giữa các ý kiến, nhận định
· Rút ra những kết luận và khái quát hóa được đảm bảo
· Đưa những kết luận và khái quát hóa ấy ra kiểm nghiệm
· Xây dựng lại mô hình niềm tin của mình trên cơ sở những trải nghiệm rộng hơn
· Đưa ra những nhận định, đánh giá xác đáng về những điều cụ thể trong đời sống hàng ngày

Tóm lại:

“Tư duy phản biện là một nỗ lực nhất quán nhằm xem xét bất cứ niềm tin nào hay bất cứ hình thức tri thức nào dưới ánh sáng của các minh chứng hỗ trợ cho nó và những kết luận xa hơn mà nó nhắm tới.”

Những nguyên tắc và khuynh hướng

Ước muốn tự phê phán

Tư duy phản biện vừa là ý muốn vừa là khả năng có thể tự đánh giá những suy nghĩ của chính mình. Tư duy có thể bị phê phán vì người ta không có đủ những thông tin thiết yếu – thực ra thì những thông tin quan trọng có thể còn chưa được khám phá, hay thậm chí chưa thể biết được– hoặc là vì người ta đã suy luận không hợp lý, dùng những khái niệm không phù hợp, hay thất bại vì không lưu ý tới những ý nghĩa quan trọng bên trong. Tư duy người ta có thể không rõ ràng, thiếu chính xác, không sâu sắc, không thiết thực, chật hẹp, nông cạn, phi logic, hay tầm thường, do ngờ nghệch hay do không biết ứng dụng những kỹ năng tư duy đã học một cách phù hợp ….

Những suy nghĩ có cân nhắc

Trong khi dùng tư duy phản biện để giải quyết vấn đề và tìm ra những quyết định một cách có cân nhắc, người ta coi các minh chứng (cũng như những chứng cớ điều tra), bối cảnh của nhận định, những tiêu chí thiết yếu để tạo ra một nhận định đúng, những phương pháp hay kỹ thuật có thể áp dụng được để xây dựng các luận điểm, và những cấu trúc lý thuyết có thể ứng dụng để hiểu những vấn đề trong tầm tay. ….

Năng lực

Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic (chính thức, hoặc thường thấy hơn, phi chính thức) mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng.

Thói quen hay đặc điểm của ý nghĩ

Thói quen tích cực của việc suy nghĩ biểu lộ đặc điểm của một người sẵn sàng cho tư duy phản biện bao gồm một khát vọng dũng cảm theo đuổi lẽ phải và các minh chứng làm căn cứ cho mọi nhận định bất kể nó sẽ dẫn đến đâu; một đầu óc cởi mở, một sự chú ý trước tới những hậu quả có thể xảy ra đối với một lựa chọn nào đó, một cách tiếp cận có hệ thống trong việc giải quyết vấn đề, một bản tính tò mò muốn biết đến ngọn đến nguồn mọi thứ, một đầu óc không định kiến và sự trưởng thành trong nhận định, cũng như tự tin về lẽ phải.

Khi chỉ có kỹ năng suy nghĩ mà không có những đặc điểm trí tuệ trên đây, thì kết quả là một nhận thức yếu kém về tư duy phản biện. Một đầu óc không định kiến, hay là một cảm thức mạnh mẽ về Tư duy phản biện đòi hỏi sự khiêm tốn, sự cảm thông, tính chính trực, sự kiên trì, can đảm, tự chủ, tự tin vào lẽ phải, và những đặc điểm trí tuệ khác nữa. Bởi vậy, tư duy phản biện mà không có những đặc điểm trí tuệ cốt lõi như thế thường sẽ dẫn đến những tư tưởng thông minh, nhưng có tính chất mánh khóe và phi đạo đức hoặc chủ quan.

Tầm quan trọng

Tư duy phản biện là một nhân tố quan trọng của tất cả mọi lãnh vực nghề nghiệp chuyên môn và mọi chuyên ngành khoa học (qua dẫn ra những câu hỏi chấp nhận được, những nguồn minh chứng hay tiêu chí, v.v.). Trong khuôn khổ của chủ nghĩa hoài nghi khoa học, quá trình tư duy phản biện liên quan đến việc thu thập và diễn giải thông tin một cách thận trọng và dùng nó để đạt đến một kết luận có thể biện minh được rõ ràng. Những khái niệm và nguyên tắc của tư duy phản biện có thể áp dụng cho mọi bối cảnh nhưng chỉ bằng cách cân nhắc kỹ bản chất của sự ứng dụng đó.

Tư duy phản biện được coi là quan trọng trong mọi lãnh vực khoa học là vì nó tạo điều kiện cho người ta phân tích, đánh giá, giải thích, và xây dựng lại những suy nghĩ của mình, bằng cách đó làm giảm rủi ro vận dụng, hay hành động, hay suy nghĩ với một niềm tin sai lầm. Tuy nhiên, ngay cả với những kiến thức về phương pháp đặt câu hỏi và lập luận logic, người ta vẫn có thể phạm sai lầm do thiếu năng lực vận dụng hay do những đặc điểm tính cách như tự coi cái tôi của mình là trung tâm vũ trụ. Tư duy phản biện bao hàm việc xác định rõ những định kiến, thiên vị, tuyên truyền, tự lừa dối, xuyên tạc, và những thông tin sai lạc.v.v. Với những kết quả nghiên cứu trong tâm lý học tri nhận, một số nhà giáo dục tin rằng nhà trường cần phải tập trung vào việc dạy cho sinh viên những kỹ năng về tư duy phản biện và nuôi dưỡng trong họ những phẩm chất cốt lõi của hoạt động trí tuệ.

Trong nhà trường

John Dewey chỉ là một trong nhiều nhà lãnh đạo giáo dục đã nhận ra rằng một chương trình đào tạo nhằm vào việc xây dựng kỹ năng tư duy sẽ có lợi không chỉ cho người học mà là cho cả cộng đồng và toàn xã hội.

Điểm mấu chốt để thấy tầm quan trọng của tư duy phản biện trong khoa học là hiểu rõ tầm quan trọng lớn lao của tư duy phản biện trong việc học tập. Có hai ý nghĩa đối với việc học tập. Ý nghĩa thứ nhất xuất hiện khi người học lần đầu tiên xây dựng trong tâm trí mình những ý tưởng cơ bản, những nguyên tắc và lý thuyết cố hữu về nội dung. Đây là quá trình nội tại hóa. Ý nghĩa thứ hai nảy sinh khi người học sử dụng những ý tưởng, nguyên tắc và lý thuyết ấy một cách hữu hiệu vì nó đã trở thành thiết yếu trong đời họ. Đó là quá trình ứng dụng. Thầy giáo giỏi sẽ nuôi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh trong mọi giai đoạn của việc học kể cả giai đoạn khởi sự. Quá trình gắn kết trí tuệ này là trọng tâm của hoạt động trợ giảng tại những trường như Oxford, Duham, Cambridge và London School of Economics. Người trợ giảng đặt câu hỏi với sinh viên theo cách của triết gia Socrat. Điều trọng yếu ở đây là, người thầy vun đắp tư duy phản biện cho sinh viên bằng cách đưa ra những câu hỏi kích thích tư duy, là điều cốt lõi trong việc kiến tạo tri thức.

Như đã nhấn mạnh trên đây, mỗi chuyên ngành vận dụng những khái niệm và nguyên tắc của tư duy phản biện khác nhau. Những khái niệm cốt lõi thì lúc nào cũng thế, nhưng nó gắn chặt với nội dung từng lĩnh vực cụ thể. Đối với sinh viên, để học được nội dung kiến thức, thì sự gắn kết trí tuệ là điều vô cùng cốt yếu. Mọi sinh viên đều phải tự mình tư duy bằng cái đầu của chính mình, tự mình kiến tạo nên tri thức cho bản thân. Người thầy giáo giỏi nhận thức được điều này và tập trung vào những câu hỏi, bài đọc và những hoạt động kích thích suy nghĩ để sinh viên tự mình làm chủ những khái niệm cốt lõi và những nguyên tắc ẩn dưới sự vật hay sự việc.

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN 

Tags: ,