Vị trí của Việt Nam trong lịch sử hệ thống thương mại biển Đông

Chú thích:

(1). Tổng quan về thành tựu nghiên cứu hải sử và hải thương sử trong những năm gần đây, xin xem: Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt: Thực tế lịch sử và nhận thức” và Phạm Đức Anh, Nguyễn Ngọc Phúc, “Nghiên cứu ngoại thương Việt Nam trước thế kỉ XVIII: vài nét nhìn lại”, in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á, thế kỉ XVI-XVII, Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 311-350 & 417-432.

(2). Về phương pháp tiếp cận này, Giáo sư Roderich Ptak (Đại học Munchen, Đức) khái quát như sau: “Các sử gia chuyên về đế chế khi nghiên cứu biển hoặc các vùng cận duyên có xu hướng nhìn đối tượng nghiên cứu từ đất liền, cho rằng vùng cận duyên và biển nên được đối xử như một bộ phận trực thuộc lục địa. Bởi thế chúng thường bị coi là yếu tố ngoại vi và, trên phương diện chức năng, phụ thuộc vào các trung tâm chính trị và văn hoá trong lục địa. Các nhà sử học nghiên cứu về biển sử dụng phương pháp tiếp cận riêng của mình. Một cách ẩn dụ mà nói, sử gia chuyên về hải sử đặt mình giữa biển khơi để nhìn nhận các khu vực cận duyên; họ nhìn từ biển vào bờ, chứ không phải từ bờ ra biển”. Xin xem từ: Roderich Ptak, “The Gulf of Tongkin: A Mediterranean?”, in “A Mini Mediterranean Sea”: Gulf of Tongking through History, Australian National University/Guangxi Academy of Social Sciences, Nanning, China, 3/2008, p. 30.

(3). Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII qua các nguồn tư liệu phương Tây”, Nghiên cứu Lịch sử, 1/2007, tr. 54-64 & 2/2007, tr. 54-63; Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden-Boston: Brill, 2007), pp. 12-15.

(4). Bài viết xin được giới hạn nội dung thảo luận vào vị trí của miền bắc nước ta trong hệ thống thương mại Biển Đông từ khoảng Công nguyên đến cuối thế kỉ XVI. Thế kỉ XVII (gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) sẽ được trình bày riêng trong chuyên luận “Đại Việt trong hệ thống thương mại Nội Á của Công ty Đông Ấn Hà Lan thế kỉ XVII” (sắp in).

(5). Hà Văn Tấn (cb.), Khảo cổ học Việt Nam (Tập 1: Thời đại đá Việt Nam), Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 199-237 & 264-275. Xem thêm từ Đỗ Văn Ninh, Thương cảng Vân Đồn, Nxb. Thanh Niên, H., 2004, tr. 21-76.

(6). Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Biển với người Việt cổ, Nxb. VHTT, H., 1996, tr. 64-95. Xin xem thêm từ: Nguyễn Khắc Sử, “Giao lưu văn hoá thời tiền sử ở vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam qua tư liệu khảo cổ học” và Trình Năng Chung, “Những di tích văn hoá tiền sử ở Vân Đồn, Quảng Ninh: Tư liệu và nhận thức”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn: Lịch sử, tiềm năng kinh tế, và các mối giao lưu văn hoá, 7/2008, tr. 461-474 & 475-489.

(7). Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, H., 2000, tr. 30-34. Xem thêm từ Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam: Sino-Vietnamese Relations to the Tenth Century and the Origins of Vietnamese Nationhood (Ph.D Diss., The University of Michigan, 1976).

(8). Dẫn lại từ Wang Gungwu, The Nanhai Trade, The Early History of Chinese Trade in the South China Sea (Singapore: Times Academic Press, 1998), pp. 1-14.

(9). Dẫn lại từ Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 1-14.

(10). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, p. 7; Liang Bingmeng, “The Hepu Port – the Most Ancient Departure Port and the Maritime Silk Route” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, pp. 142-151.

(11). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 31-35. Xem thêm từ Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, tr. 41-43.

(12). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 37-38.

(13). Wang Gungwu, The Nanhai Trade, pp. 17, 25, 31, 35, 38, 44, 45. Xem thêm từ Jenifer Holmgran, Chinese Colonization of Northern Vietnam: Administrative Geography and Political Developments in the Tonking Delta, First to Sixth Century AD (Canberra: Australian National University Press, 1980), p. 175; Kenneth R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia (Honolulu: Hawaii University Press, 1985), pp. 194-197.

(14). Kenneth R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, pp. 178-181.

(15). Những quan điểm trên có thể được xem từ: John K. Whitmore, “‘Elephant can Actually Swim’: Contemporary Chinese View of Late Li Dai Viet”, in David Marr and A.C. Milner (eds), Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1986, pp. 117-138; Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade from the 10th to the 15th Century”, Crossroads, 12/1 (1998), pp. 1-34; Li Tana, “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnam Coast”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 83-102; John K. Whitmore, “The Rise of the Coast: Trade, State and Culture in Early Đại Việt”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 103-122.

(16). Gần đây đã có một số nhà nghiên cứu trong nước khảo cứu về truyền thống thương mại và thương mại biển của người Việt trong lịch sử dưới cách nhìn mới, cởi mở hơn. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt”, sđd, tr. 311-350.

(17). Chẳng hạn, từ nửa cuối thập niên nhà sử học người Mĩ Keith W. Taylor (The Birth of Vietnam) đã phân tích vấn đề này khá sinh động trong luận án Tiến sĩ của mình bảo vệ tại ĐH Michigan (Mĩ). Năm 1993, Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng đã công bố chuyên luận “Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về Biển của Việt Nam”, Nghiên cứu Đông Nam Á, 1/1993, tr. 1-17 .

(18). John K. Whitmore, “‘Elephant can Actually Swim’”, pp. 117-138. Vấn đề này gần đây lại được Whitmore làm sáng tỏ thêm trong các chuyên luận “The Rise of the Coast”, pp. 103-122.

(19). Dẫn lại theo: Trương Hữu Quýnh (cb), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, H., 1999, tr. 149. Có thể tham khảo thêm từ Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Mạnh Dũng, “Truyền thống và hoạt động thương mại của người Việt”, sđd, tr. 311-350.

(20). Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập I, Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 261.

(21). Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr. 317.

(22). Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade from the 10th to the 15th Century”, pp. 1-34. Xem thêm từ: Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng, “Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lí, Trần (thế kỉ XI-XIV)”, Nghiên cứu Lịch sử, số 7/2007, tr. 23-37; Hồ Trung Dũng, Vị trí của Nghệ – Tĩnh trong hệ thống thương mại khu vực thời Lí – Trần, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 2008.

(23). Li Tana, “A View from the Sea”, pp. 86-90.

(24). Li Tana, “A View from the Sea”, p. 90. Về những tuyến buôn bán giữa Đại Việt với miền nam Trung Hoa, xin xem từ: Nguyễn Mạnh Dũng, “Vùng Đông Bắc Việt Nam trong tuyến hải thương Đông Á thế kỉ VIII-XVIII (Qua khảo cứu một số tư liệu Bồ Đào Nha và Pháp)” và Dương Văn Huy, “Quan hệ giao thương giữa vùng Đông Bắc Việt Nam với các cảng miền nam Trung Hoa thế kỉ X-XIV”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn, sđd, tr. 296-326 & 350-367.

(25). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia: 900-1300 C.E.?”, Workshop on Dynamic Rimlands and Open Heartlands: Maritime Asia as a Site of Interactions (Conference Proceeding), Osaka University and National University of Singapore, 2006, pp. 27-81. Có thể xem thêm từ Paul K. Benedict, “A Cham Colony on the Island of Hainan”, Harvard Journal of Asiatic Studies, Vol. 6, No. 2, 1941, pp. 129-134; Li Tana, “A View from the Sea”, pp. 90-95.

(26). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”, p. 45.

(27). Paul K. Benedict, “A Cham Colony on the Island of Hainan”, pp. 90-95.

(28). Li Tana, “A View from the Sea”, p. 90.

(29). Kết quả nghiên cứu khảo cổ học vùng quần đảo Vân Đồn cho thấy gốm sứ men ngọc Long Tuyền thời Tống được tìm thấy với mật độ cao tại nhiều địa điểm ở Vân Đồn minh chứng cho chức năng trung chuyển của khu vực này trong hệ thống mậu dịch gốm sứ khu vực nói riêng và hệ thống hải thương khu vực nói chung. Bên cạnh đó, gốm sứ men nâu thời Trần và gốm sứ Chu Đậu thời Lê cũng được tìm thấy với mật độ khá cao. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, “Hệ thống thương cảng Vân Đồn qua các nguồn tư liệu lịch sử, điền dã và khảo cổ học”, Khảo cổ học, 4/2006, tr. 46-65; Nguyễn Văn Kim, “Tính hệ thống và quy mô của Vân Đồn: Vai trò và vị thế của một thương cảng”, kỉ yếu khoa học Thương cảng Vân Đồn, sđd, tr. 276-295. Có thể xem thêm những kết quả nghiên cứu khảo cổ học tại hệ thống đảo Vân Đồn trong Đỗ Văn Ninh, Thương cảng Vân Đồn, Nxb. Thanh Niên, H., 2004.

(30). Roxanna M. Brown, The Ceramics of South-East Asia (Singapore: Oxford University Press, 1988), pp. 28-29; John Guy, “Vietnamese Ceramics in International Trade”, in John Stevenson and John Guy (eds.), Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition (Michigan: Art Media Resources, 1994), pp. 47-61.

(31). Bennet Bronson, “Export Porcelain in Economic Perspective: The Asian Ceramic Trade in the 17th Century”, in Chumei Ho (ed.), Ancient Ceramic Kiln Technology in Asia (Hong Kong: University of Hong Kong, 1990), pp. 126-150. Xem thêm từ: Hoàng Anh Tuấn, “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế kỉ XVII: Tư liệu và nhận thức”, Nghiên cứu Lịch sử, 11/2007, tr. 28-39.

(32). Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”, pp. 28-36.

(33). Có thể tham khảo những luận giải thú vị về vấn đề này từ: Momoki Shiro, “Dai Viet and the South China Sea Trade”; Li Tana, “A View from the Sea”; John K. Whitmore, “The Rise of the Coast”; Geoff Wade, “An Earlier Age of Commerce in Southeast Asia”.

(34). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don: Trade and State in Fifteenth Century Dai Viet: A Changing Regime?” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, pp. 167-180.

(35). Đại Việt sử kí toàn thư (Tập II, Nxb. KHXH, H., 1998, tr. 427) chép, năm 1467 “thuyền đi biển của nước Xiêm La đến trang Vân Đồn dâng biểu văn khắc trên lá vàng và dâng sản vật địa phương, vua khước từ không nhận”. Whitmore cho rằng thái độ này của Lê Thánh Tông kết hợp với những chủ trương chính sách của triều đình về vấn đề kinh tế trong đó chủ trương trọng nông ức thương đã thể hiện rất rõ… là cơ sở để tin rằng ngoại thương Đại Việt đi xuống từ khoảng thập niên 1460. Xem John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, pp. 167-180.

(36). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, p. 178. Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, sự hiện diện của các hiện vật gốm sứ mang niên đại thế kỉ XVII-XVIII tại các di tích ở các đảo thuộc Vân Đồn là một trong những bằng chứng thuyết phục về sự tồn tại liên tục của thương cảng Vân Đồn đến khoảng thế kỉ XVIII. Xin xem: Nguyễn Văn Kim, “Tính hệ thống và quy mô của Vân Đồn: Vai trò và vị thế của một thương cảng”, sđd, tr. 276-295.

(37). John K. Whitmore, “The Disappearance of Van-don”, p. 178. Cũng cần phải lưu ý rằng quan điểm của Whitmore trong bài viết này về việc Vân Đồn bị thay thế bởi Phố Hiến dường như chưa thật sự thuyết phục và cập nhật bởi trong thế kỉ XVII Phố Hiến không phải là trung tâm thương mại thực sự của Đàng Ngoài mà chỉ là một trong ba địa điểm thuộc mạng lưới thương mại liên hoàn dọc “sông Đàng Ngoài” là Thăng Long, Phố Hiến, Domea. Xin xem thêm về vấn đề này từ: Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII”.

(38). Điều 61-64 (chương Tạp luật) của bộ Quốc triều hình luật rõ ràng thể hiện sự khắt khe của nhà nước đối với thương cảng Vân Đồn. Bên cạnh đó, các điều 25-28 (chương Cấm vệ) và điều 125 (chương Vi chế) cũng quy định cụ thể và khắt khe đối với ngoại thương và thương nhân nước ngoài. Xin xem từ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam (Tập 1: Từ thế kỉ XV đến XVIII), Nxb. KHXH, H., 2006, tr. 66-67, 96, 183-185.

(39). Về quá trình xác lập mạng lưới thương mại của người Bồ Đào Nha ở khu vực Đông Á trong nửa đầu thế kỉ XVI, xin xem: Đặng Thị Yến, Quá trình xác lập mạng lưới thương mại của Bồ Đào Nha ở Đông Á, thế kỉ XVI-nửa đầu thế kỉ XVII, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, 2007. Xem thêm: Om Prakash, “European and Asian Merchants in Asian Maritime Trade, 1500-1800: Some Issues of Methodology and Evidence”, in J. M. Flores, (ed.), Revista de Cultura 13/14: The Asian Seas 1500-1800, Local Societies, European Expansion and the Portuguese (Macao, 1991). (Reprinted in Om Prakash, Precious Metals and Commerce, Variorum 1994).

(40). Trên phương diện thương mại quốc tế giai đoạn cận đại sơ kì, khái niệm “Nam Hải/the South Sea” thường được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ vùng biển trải dài từ Nhật Bản đến sườn phía đông của châu Phi.

(41). Về thương mại của người Bồ Đào Nha ở Macao thế kỉ XVI-XVII, xin xem từ: T’ien Tse Chang: Sino – Portuguese Trade from 1514 to 1644: A Synthesis of Portuguese and Chinese Sources (Leiden: Brill, 1933); George B. Souza, The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea 1630-1754 (Cambridge: Cambridge University Press, 1986).

(42). Geoff Wade, “On the Possible Cham Origin of the Philippine Scripts”, Journal of Southeast Asian Studies 24/1, 1993, pp. 44-87.

(43). James K. Chin, “Bridging East Ocean and West Ocean: Hokkien Merchants in Maritime Asia Prior to 1683, with a Special Reference to the Ports of East Asia”, in Workshop on Northeast Asia in Maritime Perspective: A Dialogue with Southeast Asia (conference proceeding), National University of Singapore and Osaka University, 2004, pp. 121-159. Xem thêm từ: Kenneth R. Hall, “Multi-Dimensional Networking: 15th Century Indian Ocean Maritime Diaspora in Southeast Asian Age of Commerce”, Journal of Economic and Social History of the Orient, 49/ 4, 2006, pp. 454-481.

(44). Roxanna M. Brown, “Ming Gap? Data from Shipwreck Cargoes”. Paper presented at the ARI Workshop on Southeast Asia in the Fifteenth Century and the Ming Factor, Singapore, July, 2003. Về gốm sứ Đại Việt xuất khẩu ra thị trường khu vực, xin xem: Aoyagi Yoji, “Vietnamese Ceramics Discovered on Southeast Asian Islands”, in Ancient Town of Hội An (Hanoi: The Gioi Publishers, 1993).

(45). Roxanna M. Brown, “Dữ liệu từ vụ đắm tàu ở Hội An/Cù Lao Chàm và một số vùng biển khác của Đông Nam Á”, Tham luận trình bày tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần II, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2004. Có thể lưu ý thêm là việc một số người châu Âu ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Tomé Pires, ghi chép về sự yếu kém của Đại Việt trong thương mại khu vực thế kỉ XVI là có những cơ sở lịch sử. Xem thêm từ: Tomé Pires, The Suma Oriental of Tomé Pires: An Account of the East, From the Red Sea to Japan, Written in Malacca and India in 1512-1515 (London: Hakluyt Society, 1944), p. 114.

(46). Về sự phát triển của Dương Kinh thời Mạc, xin xem: Đỗ Thị Thuỳ Lan, “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỉ XVII-XVIII: Batsha và mối liên hệ với quê hương nhà Mạc”, Nghiên cứu Lịch sử, 1/2008, tr. 21-32 & 2/2008, tr. 42-48; Vũ Đường Luân, “Dấu tích cảng bến thương mại và đặc điểm kinh tế, tín ngưỡng vùng hạ lưu sông Thái Bình thế kỉ XVII-XVIII (Qua các khảo sát thực địa và tư liệu văn bia)”, Nghiên cứu Lịch sử, 5/2008, tr. 25-34. Có thể xem thêm từ: Trần Quốc Vượng, “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thế kỉ XVI”, in trong Trần Thị Băng Thanh và Vũ Thanh (cb), Nguyễn Bỉnh Khiêm: về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo Dục, H., 2001, tr. 70-83; Nguyễn Quang Ngọc, “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII-XVIII”, Nghiên cứu Lịch sử, 10/2007, tr. 3-19.

(47). P. W. Klein, “The China Seas and the World Economy between the 16th and 19th Centuries: The Changing Structure of Trade”, in Davids, C. A., Fritschy, W. and Valk, L. A. van der (eds.), Kapitaal, Ondernemerschap en Beleid: Studie over economie en politiek in Nederland, Europa en Azië van 1500 tot heden: afscheidsbundel voor prof. dr. P. W. Klein (Amsterdam: NEHA, 1996). Xem thêm từ: Leonard Blussé, “No Boats to China: the Dutch East India Company and the Changing Pattern of the China Sea Trade, 1635-1690”, Modern Asian Studies, 30/1 (1996), pp. 51-70.

(48). Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007). Xem thêm chuyên luận khái quát về vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Á: Momoki Shiro and Hasuda Takashi, “Vietnam in the Early Modern East- and Southeast Asia”, in trong: in trong: Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á, thế kỉ XVI-XVII, Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 351-386.

(49). Hoàng Anh Tuấn, “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỉ XVII”, tr. 54-64 & 2/2007, tr. 54-63.

(50). Về chiến lược thương mại của người Hà Lan và Anh đối với vùng Đông Bắc trong thế kỉ XVII, xin xem từ Hoang Anh Tuan, “One Encounter, Two Frontiers: Europeans’ Commercial Perspectives on the North-Western Part of the Gulf of Tonkin in the Seventeenth Century” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, sđd, pp. 181-193. Cũng xem thêm từ Hoang Anh Tuan, “From Japan to Manila and Back to Europe: The English Abortive Trade with Tonkin in the 1670s”, Itinerario: International Journal on the History of European Expansion and Global Interaction, Vol. XXIX, no. 3/2005, pp. 73-92.

(51). Vấn đề hải tặc ở khu vực Đông Bắc được phản ánh khá thường xuyên trong các ghi chép của người Hà Lan, chẳng hạn: Dagh-register gehouden int Casteel Batavia vant passerende daer ter plaetse als over geheel Nederlandts-India (The Hague: Martinus Nijhoff and Batavia: Landsdrukkerij, 1887-1931), 1661, pp. 49-55. Xem thêm những nghiên cứu về vấn đề này từ: Hoang Anh Tuan, “Tonkin Rear for China Front: The VOC’s Exploration for the Southern China Trade in the 1660s”. Paper presented at the international workshop Ports, Pirates and Hinterlands in the East and Southeast Asia: Historical and Contemporary Perspectives, Shanghai, China, November 2005; Niu Junkai, “Pirates, Merchants and Mandarins: Chinese and Vietnamese Pirates in Tongking Gulf during 17th century period” in A Mini Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History, sđd, tr. 201-209.

(52). Nguyen Long Kerry, “Bat Trang and the Ceramic Trade in Southeast Asian Archipelagos”, in Phan Huy Le et al., Bat Trang Ceramic, 14th-19th Centuries (Hanoi: The Gioi Publishers, 1994), pp. 84-90; Hoàng Anh Tuấn, “Gốm sứ Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế kỉ XVII: Tư liệu và nhận thức”, tr. 28-39.

Tags: , , ,