⠀
Văn học đương đại Trung Quốc trong mắt một nhà Hán học châu Âu
Cuối năm 2006, văn đàn Trung Quốc bỗng dậy sóng sau khi Báo Buổi sáng Trùng Khánh ngày 11/12 đăng bài Nhà Hán học người Đức nói văn học đương đại Trung Quốc là rác rưởi.
Tượng nhà văn Lỗ Tấn ở Thượng Hải.
Nhà Hán học ấy tên là Wolfgang Kubin. Ba ngày sau, Kubin thanh minh: ông chỉ nói cái gọi là tác phẩm của các “nhà văn mỹ nữ” Trung Quốc (như Miên Miên, Hồng Ảnh, Vệ Tuệ) không phải là văn học, mà là rác rưởi, chứ không hề nói văn học đương đại Trung Quốc (văn học Trung Quốc từ sau 1949) là rác rưởi. Nhưng lời thanh minh đó bị nhấn chìm trong tiếng hò la trên báo đài và một biển trang mạng. Nhiều người tin Kubin sỉ nhục giới nhà văn Trung Quốc. Vô số lời thóa mạ đổ lên đầu ông. Nhưng đồng thời, lâu nay người Trung Quốc đã xì xào nhiều về tình trạng văn học nước này “lớn mà chưa mạnh” nhưng ít người dám phê phán, tranh luận; bây giờ có nhà Hán học nước ngoài công khai, dũng cảm bình phẩm văn học đương đại Trung Quốc, họ lập tức bâu lấy và nhân thể nói lên ý kiến của mình. “Thuyết rác rưởi” trở thành thương hiệu, thành “passport” giúp Kubin đi khắp Trung Quốc. Các trường đại học và báo đài đua nhau phỏng vấn hoặc mời ông nói về văn học đương đại Trung Quốc. Năm 2009 Kubin được Trung tâm nghiên cứu văn học (văn học) hiện đại Trung Quốc thuộc ĐH Nam Kinh mời làm giáo sư kiêm chức. Năm 2011 lại được ĐH Ngoại quốc ngữ Bắc Kinh mời làm giáo sư đặc thỉnh. Cuối năm 2015 trường này phát hành Tập 50 bài viết mừng thọ GS Kubin 70 tuổi, triển lãm ảnh về ông, và tổ chức Hội thảo khoa học Kubin với Trung Quốc, tại đây đại diện nhiều ĐH lớn ở Bắc Kinh đã trực tiếp đối thoại với Kubin.
Wolfgang Kubin: nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật, hội viên Hội Dịch giả Đức và Hội Nhà văn Đức, GS Chủ nhiệm Khoa Hán học ĐH Bonn. Ông làm luận án tiến sĩ (1973) về thơ trữ tình của Đỗ Mục. 1974-75 học Hán ngữ ở ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh. 1981 bảo vệ luận án tư cách GS, đề tài Không Sơn – quan điểm tự nhiên của văn nhân Trung Quốc. Đã viết hoặc dịch hơn 50 tác phẩm văn học. Dịch Luận ngữ, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử…, dịch thơ của hơn 50 nhà thơ Trung Quốc như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bắc Đảo, Cố Thành,… Dịch Tuyển tập Lỗ Tấn 6 tập, viết Diễn biến quan điểm tự nhiên trong văn họcTrung Quốc, Lịch sử thi ca cổ điển Trung Quốc, và Lịch sử văn họcTrung Quốc thế kỷ XX (10 tập) – bản dịch tiếng Trung Quốc sách này khi xuất bản ở Trung Quốc đã gây phản ứng không nhỏ. Được tặng nhiều giải thưởng văn học trong, ngoài nước, như giải Johann-Heinrich-Voß-Preis là giải thưởng dịch thuật cao nhất nước Đức. |
Kubin đã phê bình gì về văn học đương đại Trung Quốc?
– văn họcTrung Quốc trước năm 1949 có thể sánh với văn học Pháp, Ý, Tây Ban Nha…, có một số nhà văn lớn và nhiều tác phẩm thượng hạng – Nhưng kể từ năm 1949, văn học đương đại Trung Quốc có địa vị quốc tế rất thấp, chỉ sánh được với văn học Đông Âu, chưa có tác phẩm tầm cỡ thế giới, không có nhà văn lớn đại diện cho văn học thế giới. Giới học giả và Hán học Đức coi thường văn học đương đại Trung Quốc, coi là văn học thông tục, không phải là văn học nghiêm túc, tuy dân thường Đức vẫn ưa đọc. Giới nhà văn Đức phản cảm với sách của Mạc Ngôn, của Dư Hoa, Tô Đồng, Tốt Phi Vũ. Giai đoạn sau 1979, chỉ có thi ca của Trung Quốc đạt tầm cỡ thế giới (gần đây có một số nhà thơ cỡ thế giới như Trác Vĩnh Minh và các nhà thơ hải ngoại Bắc Đảo, Đa Đa, Dương Luyện…); tiểu thuyết ngắn và vừa cũng rất khá (thập niên 1980 có một số tiểu thuyết rất hay, như của Trương Khiết), nhưng tiểu thuyết dài và kịch bản thì có vấn đề. Kể từ sau 1992, văn họcTrung Quốc và thế giới dần dần đi vào con đường thị trường.
– Nhà văn đương đại Trung Quốc không biết sáng tác văn học, tiểu thuyết Trung Quốc tập trung vào kể chuyện (dù thời đại văn học kể chuyện đã kết thúc từ lâu rồi, trừ ở Trung Quốc và Mỹ), không viết nội tâm con người, không biết con người là gì. Bệnh chung của văn học đương đại Trung Quốc là không coi trọng ngôn ngữ, chỉ coi trọng nội dung, coi ngôn ngữ là công cụ. Nhiều nhà văn không nắm vững tiếng mẹ đẻ, vì thế nhà văn Trung Quốc về cơ bản là nhà văn không chuyên. Họ nên học lại Hán ngữ, vì ngôn ngữ Trung Quốc đã bị chính trị phá hỏng. Sau năm 1949, Trung Quốc không có các nhà văn biết ngoại ngữ, họ không đọc được nguyên tác văn học nước ngoài, vì thế không hiểu biết về văn học thế giới, không thể tiếp thu các ngôn ngữ khác để làm phong phú cách biểu đạt của mình.
– Khuyết điểm nổi bật nhất của văn họcTrung Quốc là không có tư tưởng. Nhà văn Trung Quốc sau 1949 không dám tự mình suy nghĩ mà để người khác nghĩ hộ. Sau năm 1979, họ để mất năng lực ngôn ngữ, truyền thống Trung Quốc và khả năng ngoại ngữ. Sau năm 1992 họ biến thành công cụ của thị trường. Nhà văn Trung Quốc đương đại đều không có cái tôi [tự ngã] đích thực. Nhà văn Trung Quốc đương đại không dám nói lên tiếng nói của mình. Nhà văn Đức thay mặt người Đức để nói, cho nên chúng tôi có tiếng nói của nước Đức. văn họcTrung Quốc không có tiếng nói của mình, chỉ có tiếng nói hợp với yêu cầu của chính trị hoặc thị trường.
– Kubin đánh giá về một số nhà văn tiêu biểu của Trung Quốc: Lỗ Tấn thật vĩ đại, có năng lực ngôn ngữ rất cao, giỏi mấy ngoại ngữ, có tư tưởng riêng và dám nói lên tiếng nói của mình. AQ đã trở thành một nhân vật quốc tế. Lỗ Tấn là nhà văn Trung Quốc tiêu biểu nhất cho tính hiện đại trong thế kỷ XX. Sở dĩ người ta ngại đọc Lỗ Tấn vì vừa đọc vừa phải suy nghĩ về quan điểm của ông. Kim Dung chỉ là một nhà văn truyền thống. “Đối với tôi, Kim Dung đại diện cho sự thoái bộ về mặt sáng tác văn học”. Kubin phản đối việc sách giáo khoa văn phổ thông trung học Trung Quốc thay AQ chính truyện bằng Tuyết sơn phi hồ của Kim Dung.
– Người Trung Quốc coi thường văn hóa Trung Quốc và thiếu quan tâm văn họcTrung Quốc. Giới học giả có hiện tượng văn nhân tương khinh rất rõ: trước mặt tâng bốc, sau lưng công kích, làm hỏng hình ảnh chính mình; một số nhà văn tự cho mình giỏi nhất. Những nhà văn Trung Quốc tôi quen đều coi thường Hội Nhà văn Trung Quốc.
– Nhà văn Trung Quốc đương đại không coi văn học là một công việc cao cả, gian khổ cần suốt đời theo đuổi, mà họ tùy tiện “chơi văn học”, có người bỏ sáng tác văn học đi viết kịch bản để kiếm tiền, họ thiếu lòng kính sợ văn học.
– Công tác phê bình văn học ở Trung Quốc có vấn đề: khen thì được tiền, nhà phê bình thiếu nghiêm chỉnh, sợ nói thật. văn họcTrung Quốc vẫn dùng chủ nghĩa Marx để đánh giá mình. Những nhà phê bình xuất sắc như Tiêu Ưng rất ít.
– Tô-tem Sói ca ngợi bản tính loài sói, tuyên dương chủ nghĩa phát xít; có vấn đề về ngôn ngữ, hình thức và ý thức tư duy, nhắc nhiều tới các khái niệm Máu, Đất, Kẻ mạnh của phát xít; nếu người Trung Quốc ưa thích những thứ đó thì xu hướng ấy chẳng có gì vẻ vang.
– Giải Nobel Văn học có tính chính trị, không phải là tiêu chuẩn của tác phẩm văn học chân chính. Việc Mạc Ngôn đoạt Nobel Văn có ảnh hưởng tiêu cực tới các nhà văn Trung Quốc. Vấn đề chính là Mạc không có tư tưởng; chính Mạc từng nói nhà văn không cần tư tưởng, chỉ cần miêu tả. (Là người đầu tiên dịch Cao Hành Kiện và hiểu tác giả; nhưng khi Cao được trao Nobel Văn 2000, Kubin nói tác phẩm của Cao “rất dở”, chỉ vì nguyên nhân chính trị mà được trao giải trong khi Trung Quốc có không ít nhà văn giỏi hơn. Linh Sơn quá dài, nội dung bắt chước nhà văn Ý Italo Calvino).
– Tôi rất ngán vì nhiều nhà văn Trung Quốc đương đại không hiểu phụ nữ, chỉ chú trọng viết về đặc điểm sinh lý mà bỏ qua phần tâm hồn và nhân cách của họ. Đàn ông trong Anh em của Dư Hoa chỉ thích ngắm mông phụ nữ. Đàn ông trong Tửu quốc của Mạc Ngôn thích sờ vú đàn bà. Vương An Ức (nữ) viết về phụ nữ giỏi hơn.
Những phản ứng và tranh luận của văn đàn Trung Quốc
Những nhận định của Kubin về văn học Trung Quốc đương đại đã làm dấy lên những cuộc tranh luận với nhiều ý kiến trái chiều chưa từng có trên văn đàn và cả không gian mạng Trung Quốc.
Nhân dân nhật báo phê phán báo này đưa tin giả, rất có hại, bóp méo hình ảnh văn họcTrung Quốc và gây ra “hiệu ứng con bướm”. GS Trần Bình Nguyên (ĐH Bắc Kinh) nói Kubin phê bình văn học đương đại Trung Quốc nhằm phỉnh phờ lấy lòng quần chúng, không đáng để xem xét; tác phẩm của các nhà văn Trung Quốc nổi tiếng đều được dư luận trong nước đánh giá rất cao, như Tô tem sói được khen hay, thế mà Kubin lại nói là có màu sắc phát xít, làm người Trung Quốc bẽ mặt. Kubin đã “vượt giới hạn”, có lẽ vì người Trung Quốc quá khiêm tốn nên Kubin mới có thể phê bình quá lời như thế. GS Trần Hiểu Minh (ĐH Bắc Kinh) cho rằng một số tác phẩm đã đạt độ cao chưa từng thấy trong 60 năm qua. Ông phản đối sự đánh giá của Kubin và nói người Trung Quốc phải có lập trường của mình, chỉ học giả Trung Quốc mới có thể đánh giá văn học đương đại Trung Quốc. Nhưng quan điểm này bị một số đồng nghiệp phản đối.
Đặc biệt bài của Kubin “Mạc Ngôn, Cao Hành Kiện và cuộc khủng hoảng văn học” đăng trên Nguyệt san Minh báo (Hong Kong, 8/2013) đã gây ồn ào lớn, chủ yếu do đánh giá thấp Mạc và Cao. Báo này số tiếp sau đăng liền 4 bài phản bác Kubin, trong đó bài viết dài của Lưu Tái Phục công kích Kubin với từ ngữ nặng nề, chụp mũ Kubin là “tên thực dân” to mồm sỉ vả văn họcTrung Quốc để phỉnh phờ lấy lòng dân Trung Quốc.
Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình văn học Trung Quốc đồng tình với những nhận xét thẳng thắn của Kubin. Nhà văn Lưu Kiến Quân cho rằng Kubin nhận xét Mạc Ngôn rất chính xác. Lý Nhuệ viết trên Bắc phương tân báo (8/6/2015) rằng: “Một người nước ngoài không quản xa xôi đến Trung Quốc đưa ra những ý kiến sắc bén, chính xác và chân thành, đó là tinh thần phê bình văn học ta đang thiếu, ta nên cảm ơn, học tập và khen ngợi”.
GS Tiêu Ưng ở Khoa Triết, ĐH Thanh Hoa nhận xét ý kiến của Kubin đánh trúng chỗ hiểm của văn học đương đại Trung Quốc. Ngụy Dục Thanh nói: Trình độ ngoại ngữ của nhà văn Trung Quốc sau thập niên 1960 kém xa các nhà văn thập niên 1930, tuy thế hệ trẻ hiện nay đã khá hơn. Ông đặc biệt tán thành việc Kubin coi trọng ngôn ngữ, ngôn ngữ quan trọng ở chỗ không chỉ là công cụ truyền thông tin mà còn ảnh hưởng tới tư duy.
Lý Nhuệ tán thành Kubin trên nhiều điểm, như nhận xét về Kim Dung, Mạc Ngôn. Lý nói giới văn họcTrung Quốc rất coi trọng các giải thưởng của nước ngoài, sau khi Mạc Ngôn nhận giải Nobel Văn chương, ai phê bình ông ấy thì bị coi là đại nghịch vô đạo. Khi người Pháp gốc Hoa Cao Hành Kiện nhận giải Nobel Văn, người Trung Quốc im thin thít, chỉ Kubin dám nói tác phẩm của Cao “rất xoàng”. Giới văn họcTrung Quốc sùng ngoại, thích nghe người nước ngoài khen mình, nhưng khi mình bị họ phê bình thì lại ghét cay ghét đắng họ.
Bành Lương Cử nhận xét: văn họcTrung Quốc từ thập niên 1950 tới nay là văn học chính trị, không có văn học hiện thực thật sự, càng khó có được tác phẩm kinh điển lớn.
Còn phần lớn độc giải đại chúng Trung Quốc đánh giá thấp văn học đương đại Trung Quốc và dường như tán thưởng “Thuyết rác rưởi”. Báo Buổi sớm Bắc Kinh 9/11/2011 cho biết theo kết quả một cuộc điều tra, 89,9% dân mạng nói văn học đương đại Trung Quốc chưa đạt tới “độ cao chưa từng thấy”, chủ yếu tăng về số lượng nhưng chất lượng tác phẩm thì kém. Nhiều người nói hiện Trung Quốc không có nhà văn nghệ mà chỉ có nhà buôn văn nghệ.
Báo Nam phương dạ vũ viết: Hơn 30 năm qua văn họcTrung Quốc phát triển mạnh về số lượng, nhưng chất lượng sa sút nhanh, chủ yếu do giới sáng tác và xuất bản chạy theo danh và lợi. Hiện nay, Trung Quốc mỗi năm xuất bản hơn 2000 tiểu thuyết dài. Phát triển nhanh nhất là văn học mạng, tuy có ích cho việc nâng cao trình độ viết của toàn dân, song lại làm cho rác văn học tràn lan. Có học giả đề nghị hoãn 10 năm việc bình chọn giải Văn học Mao Thuẫn.
Nhà văn Howard Goldblatt nhận xét: Tiểu thuyết văn học đương đại Trung Quốc không được hoan nghênh trong thế giới Anh ngữ, các nhà xuất bản không muốn in ; nhà văn Trung Quốc rất không chuyên nghiệp, họ viết nhanh quá, gây ấn tượng viết ẩu, sau khi xuất bản lại thiếu sự phê bình; một bệnh lớn nữa là viết quá dài, vì nhuận bút tính theo số chữ.
Việc Mạc Ngôn được giải Nobel không làm thay đổi cách dư luận đánh giá văn học đương đại Trung Quốc. Tân Kinh Báo viết: Giải Nobel chỉ khẳng định cá nhân Mạc Ngôn chứ không khẳng định nền văn họcTrung Quốc. Phương Châu Thủy Thủ viết: Nobel Văn chương yêu cầu tác giả phải có giá trị quan độc lập, nhưng trong một nước mà nhà văn có thể bị bắt đi thẩm vấn thì điều đó còn có ý nghĩa gì? Tào Trường Thanh, Tiêu Ưng, Lý Nhuệ… cho rằng Kubin nhận xét đúng về Mạc Ngôn; nếu tác phẩm của Mạc không được Goldblatt dịch theo kiểu sáng tạo như vậy thì chưa chắc Mạc đã được giải Nobel.
Có những nhà văn như Vương Quý Thành cho rằng, phải thay đổi chế độ “nhà nước nuôi nhà văn”, chế độ này là một nguyên nhân làm cho văn học đương đại Trung Quốc trở thành rác rưởi, hoang vu và yếu đuối”.
Nhưng bà Thiết Ngưng, Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc nói: “Tôi e rằng nước ta hiện nay chưa thể bỏ “chế độ nuôi nhà văn”; nước lớn thế này, chính phủ có thể bỏ tiền nuôi một bộ phận nhà văn ưu tú, nếu không nuôi nổi họ thì sẽ là chuyện buồn”.
Trong tranh cãi, người Trung Quốc hay viện dẫn ý kiến của Kubin. Qua đây có thể thấy giới học giả Trung Quốc đều biết Kubin có nhận định đúng về văn học đương đại Trung Quốc, nhưng trong cơ chế hiện nay, nhà văn Trung Quốc không thể thoát ra khỏi nhiều ràng buộc. Không ít nhà văn Trung Quốc, kể cả người bị phê bình đích danh, đều tránh bình luận lời của Kubin, hoặc chỉ nói qua loa. Có lẽ vì họ thấy Kubin đúng, họ biết ông nghiên cứu văn họcTrung Quốc sâu sắc hơn mình. Quả thật Kubin rất nghiêm túc, nói có sách mách có chứng, không dễ thỏa hiệp, luôn kiên định một nguyên tắc khó bác bỏ: Nhà văn chân chính thì chớ quan tâm đến thị trường.
Kubin phê bình về Mạc Ngôn
Tác phẩm của Mạc hình thức cũ, ngôn ngữ xoàng, viết quá dài, những thứ ông ấy viết “làm tôi chán ngấy đến chết” [Mo Yan bores me to death], thiếu tình yêu và sự hài hước, có quá nhiều hận thù. Mệt nhọc sống và chết (46 vạn chữ), Mạc viết trong hơn 40 ngày. Nhà văn Đức bình quân cả năm chỉ viết được chừng 100 trang. Mạc Ngôn có thể viết 800 trang trong 2-3 tháng. Nhà văn Trung Quốc “sáng tác không vì văn học mà vì tiền”. Nhiều tiểu thuyết của Mạc Ngôn chỉ kể chuyện, kể những chuyện hoang đường ly kỳ, lại có hàng chục nhân vật, nên không thể đi sâu nội tâm nhân vật. Cao lương đỏ có một nhân vật ca ngợi Đảng Cộng sản Trung Quốc một cách sống sượng, khiến người đọc rất khó chịu. Nhiều nhà văn Trung Quốc viết tốt hơn Mạc, nhưng vì không được dịch giả nổi tiếng người Mỹ Howard Goldblatt dịch ra tiếng Anh nên Ủy ban Nobel không có căn cứ để xét. Nếu Goldblatt không dịch nhiều, dịch có sửa nguyên tác và ra sức ca ngợi tác phẩm thì chưa chắc Mạc Ngôn được Nobel Văn chương. Goldblatt chỉ dịch đại ý từng đoạn, bỏ rất nhiều chỗ không cần thiết, nhờ thế tránh được các nhược điểm của nguyên tác. Tiểu thuyết Trung Quốc thường dài dòng, có thể vì nhuận bút trả theo số chữ. Mạc Ngôn bị tôi công khai phê bình nhiều nhất nhưng ông lại tiếp thu phê bình của tôi, vì thế tôi rất coi trọng ông ấy. |
Theo TẠP CHÍ TIA SÁNG
Tags: Trung Quốc, Văn học