Tầm nhìn an ninh khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương: Quan điểm từ Ấn Độ

Sự trỗi dậy chưa từng có về kinh tế và quân sự của Trung Quốc, hành vi gây hấn của nước này, các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và sự thay đổi về địa chiến lược mà điều này mang lại, là nguyên nhân chủ yếu gây ra những căng thẳng đang gia tăng trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Sự cân bằng trong khu vực đã bị đảo lộn và việc khôi phục nó là chìa khóa để đảm bảo ổn định khu vực trong tương lai. Bài viết khai thác bức tranh chiến lược rộng lớn hơn ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và tập trung vào những gì mà các cường quốc khác trong khu vực cũng như trên toàn cầu phải làm để khôi phục cán cân quyền lực trong khu vực.

Bài viết của tác giả Biren Nanda, nhà nghiên cứu cao cấp Nhóm Chính sách Delhi. Bài viết được đăng trên báo cáo Tầm nhìn An ninh Khu vực 2018 (tr.19-22) của Hội đồng Hợp tác An ninh Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (CSCAP).

Những diễn biến cốt lõi định hình nên tầm nhìn chiến lược trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương là gì? Trước hết, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007-2008), sức mạnh của Mỹ đã suy giảm tương đối và Trung Quốc đã tận dụng giai đoạn cơ hội chiến lược này bằng cách chiếm không gian chiến lược mà Mỹ bỏ trống do nước này đang bận rộn với cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước và 2 cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq.

Thứ hai, Trung Quốc đã bắt đầu hành động một cách hung hăng hơn với các nước láng giềng trong khu vực ngoại vi của mình, đơn phương đưa ra các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ dựa trên lịch sử, trước hết là thông qua việc gây hấn bằng bản đồ, và sau đó là xâm chiếm dần dần – như những gì Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã nỗ lực tiến hành ở Doklam, Bhutan từ tháng 6 đến tháng 8/2017, và thông qua các vụ cải tạo đất và quân sự hóa các bãi đá ở Biển Đông. Tương tự, các hành động khiêu khích của Trung Quốc cũng là một nguyên nhân gây ra căng thẳng gia tăng trên quần đảo Senkaku ở biển Hoa Đông kể từ năm 2010. Điều này đi kèm với sự “hăm dọa mềm” thông qua các tuyên bố đe dọa mà các phát ngôn viên chính thức và phương tiện truyền thông của Trung Quốc đã đưa ra. Các đội tàu đánh cá của Trung Quốc cũng được sử dụng để khẳng định các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông chống lại Việt Nam và Philippines, về quần đảo Senkaku chống lại Nhật Bản và quần đảo Natuna chống lại Indonesia. Hơn nữa, việc Trung Quốc theo đuổi mạnh mẽ sáng kiến “Vành đai và Con đường” đe dọa áp đặt một sự thống trị theo phong cách thuộc địa kiểu mới đối với các nước tiếp nhận sự ban ơn của Trung Quốc.

Thứ ba, các thể chế an ninh lấy ASEAN làm trung tâm đã không giải quyết được các vấn đề an ninh khó khăn xuất hiện cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc, và sự “hăm dọa mềm” cùng với những đề xuất về các nguồn quỹ đầu tư của Trung Quốc, đã khiến một số nước ASEAN phải “quy hàng”. Kết quả là, tính thống nhất của ASEAN về các yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông đã bị phá vỡ kể từ năm 2012. Trong khi Việt Nam và Indonesia tiếp tục giữ vững lập trường, thì Philippines, Campuchia và Lào đã “quy hàng” và có một lập trường thỏa hiệp khi đối mặt với sức ép từ Trung Quốc.

Thứ tư, sự thông đồng chiến lược giữa Trung Quốc và Pakistan, cũng như giữa Trung Quốc và Triều Tiên, đã làm trầm trọng thêm các thách thức an ninh đối với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Ở Nam Á, sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Pakistan –bao gồm việc phổ biến vũ khí hạt nhân và tên lửa – đã khuyến khích Pakistan tiến hành chính sách “bên miệng hố chiến tranh” với Ấn Độ. Trên bán đảo Triều Tiên, việc Trung Quốc không sẵn lòng hay không có khả năng kiềm chế Triều Tiên đã cho phép Triều Tiên tiến hành chính sách “bên miệng hố chiến tranh” về hạt nhân với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Trung Quốc đã định kỳ thể hiện khả năng giúp giải quyết khủng hoảng và đưa Triều Tiên đến bàn đàm phán, mặc dù không đạt được bất kỳ kết quả lâu dài nào. Điều này đem lại cho Trung Quốc lợi thế đòn bẩy đáng kể so với các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ, những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi hành vi của Triều Tiên. Các hoạt động phổ biến hạt nhân và tên lửa giữa Triều Tiên và Pakistan là một khía cạnh khác gây bất lợi nghiêm trọng đến an ninh quốc gia của Ấn Độ.

Thứ năm, Trung Quốc đang xây dựng một “lực lượng hải quân vùng biển khơi” có thể bảo vệ các tuyến thông tin liên lạc trên biển và trở thành một lực lượng chi phối ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Các hoạt động xây dựng cảng của Trung Quốc ở vùng ven biển Ấn Độ Dương và việc thành lập các căn cứ hải quân tại Gwadar, Pakistan và Djibouti đã dẫn tới các mối quan ngại rằng đây là một phần của một chiến lược lớn hơn nhằm tạo ra sự bao vây chiến lược đối với Ấn Độ.

Việc quản lý hiệu quả những diễn biến này phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức rằng động cơ nào đang thúc đẩy sự quyết đoán của Trung Quốc vào thời điểm hiện tại. Theo quan điểm của tác giả, đây là một vấn đề thực sự khó khăn nhưng một phần quan trọng của câu trả lời có thể sẽ được tìm thấy dưới đây. Năm 2010 Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Kể từ năm 2012, ban lãnh đạo trung ương mới dưới thời Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc hướng đến một cách tiếp cận chính sách đối ngoại mới tương xứng hơn với vị thế mới của nước này và trái ngược hoàn toàn với chiến lược “giấu mình chờ thời” mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc ưa thích kể từ thời Đặng Tiểu Bình vào những năm 1980. Câu chuyện “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình chắc chắn phù hợp với quan điểm rằng Trung Quốc hiện là một nước lớn và cần phải thể hiện những khát vọng và thái độ của một nước lớn. Chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc nhận thức được “một giai đoạn cơ hội chiến lược” để Trung Quốc khẳng định các tuyên bố chủ quyền của nước này. Nhận thức này, và niềm tin rằng giai đoạn cơ hội chiến lược sẽ sớm khép lại, đang thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại khu vực ngoại vi của nước này.

Không phải toàn bộ các vấn đề an ninh khu vực về bản chất đều mang tính chiến lược hoặc liên quan tới sự trỗi dậy của Trung Quốc. Các diễn biến an ninh sau đó đã đặt ra một mối đe dọa đối với các nước trong khu vực ở mức độ chiến thuật thay vì chiến lược, dù vậy vẫn đóng vai trò cực kỳ quan trọng.

Tại Nam Á, các nhóm khủng bố như Lashkar e Taiba, Jaish e Mohammed và Taliban, vốn do quân đội và Cơ quan tình báo liên quân (ISI) của Pakistan huấn luyện, chỉ đạo, nuôi dưỡng và tài trợ, tiếp tục được sử dụng làm các công cụ khủng bố chống lại Ấn Độ và Afghanistan. Hiện tượng khủng bố xuyên biên giới này là một nguồn gây xung đột và căng thẳng không ngừng trong quan hệ Ấn Độ-Pakistan. Cam kết và viện trợ tăng cường của Trung Quốc dành cho Pakistan, bao gồm Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan được đưa ra như một phần trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, đã một lần nữa khuyến khích Pakistan tiến hành chính sách “bên miệng hố chiến tranh” với Ấn Độ.

Sự hỗ trợ của Pakistan cho khủng bố xuyên biên giới là một mối bận tâm thường trực của Ấn Độ và thực sự ngăn họ tham gia với tư cách là một bên giữ cân bằng trong khu vực. Trong những năm qua, việc kìm hãm hành vi của Ấn Độ đã và tiếp tục là một phần đáng kể trong những tổn thất ngoài dự kiến có liên quan tới viện trợ của Mỹ dành cho Pakistan. Chính sách mới của Tổng thống Trump về Afghanistan-Pakistan có thể là một yếu tố làm thay đổi cuộc chơi trong khu vực Nam Á nếu nó giữ nguyên đường hướng và ngăn Pakistan hỗ trợ các nhóm khủng bố mà nước này đã nuôi dưỡng làm công cụ cho chiến tranh ủy nhiệm chống lại Ấn Độ và Afghanistan.

Vấn đề nổi dậy và khủng bố có lẽ đã được giải quyết ở Aceh, Indonesia, nhưng vẫn tiếp tục ở miền Nam Thái Lan và Philippines. Quả thực, chủ nghĩa khủng bố đã tìm ra hình thức thể hiện mới thông qua nhóm đang tuyên bố trung thành với “hiện tượng” Nhà nước Hồi giáo (IS) ở Indonesia, Malaysia và Philippines. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như nạn cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia và các cuộc tấn công không gian mạng cũng tiếp tục gây ra mối đe dọa ngày càng tăng đối với khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Cuộc khủng hoảng người tị nạn Rohingya đang biến thành nguy cơ chính trị và an ninh lớn nhất mà khu vực biên giới Ấn Độ-Myanmar-Bangladesh phải đối mặt – và cũng là một trong những cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất trên thế giới. Nó nhấn mạnh tác động gây bất ổn tiềm tàng khi một dòng người tị nạn di chuyển đột ngột trên khắp các biên giới quốc tế. Cũng có nhiều mối lo ngại rằng những người tị nạn nghèo khó và bị tổn thương có thể trở thành những mục tiêu dễ dàng của sự cực đoan Hồi giáo.

Cuối cùng, sự bất ổn không ngừng ở Trung Đông – nơi có hơn 6 triệu người Ấn Độ đang sinh sống và là yếu tố sống còn trong nhóm cung cấp năng lượng cho Ấn Độ – đã gây ảnh hưởng xấu cho an ninh quốc gia của Ấn Độ.

Ấn Độ đang phản ứng với những diễn biến này theo nhiều cách.

Thứ nhất, từ quan điểm chiến lược, Ấn Độ đã xích lại với Mỹ. Sự tăng cường rõ rệt trong quan hệ Mỹ-Ấn kể từ sau khi ký kết thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự, việc đưa sự can dự song phương trong nhiều lĩnh vực khác nhau đi vào chiều sâu, sự tăng trưởng trong quan hệ quốc phòng song phương và sự nổi lên của Mỹ như là một nguồn cung cấp trang thiết bị và công nghệ quốc phòng lớn là những biểu hiện rõ ràng cho sự thay đổi vị trí địa chính trị của Ấn Độ trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Thứ hai, Ấn Độ đã theo đuổi việc can dự toàn diện với Trung Quốc dựa trên niềm tin rằng có đủ không gian chiến lược ở châu Á để hỗ trợ sự trỗi dậy mang tính hiện tượng của Trung Quốc và sự trỗi dậy hơn nữa của Ấn Độ. Sự nổi lên đồng thời của Ấn Độ và Trung Quốc là một bước phát triển to lớn cần phải được xử lý một cách khôn ngoan và sáng suốt để 2 nước có thể nổi lên mà không trở thành đối thủ. Để làm được điều này, mỗi quốc gia phải nhận thức được các “giới hạn đỏ” của nước kia và đảm bảo rằng không bao giờ vượt qua những giới hạn đó.

Thứ ba, Ấn Độ đã phát triển quan hệ chiến lược chặt chẽ hơn với các nước lớn khác trong khu vực bao gồm Nhật Bản, Việt Nam và Úc. Những mối quan hệ ngày càng tăng này được dựa trên một sự hội tụ các quan điểm về các mối đe dọa phổ biến và những cơ hội ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Ấn Độ có thể được coi là một công cụ chiến lược được tạo ra nhằm giúp Ấn Độ tăng trưởng kinh tế như là một cường quốc ở châu Á. Cuộc đàm phán hiện nay với Nhật Bản về việc chuyển giao trang thiết bị và công nghệ phòng thủ có tiềm năng trở thành một cột mốc quan trọng trong việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược của đôi bên, và cho chính sự phát triển của Nhật Bản với tư cách là một nước lớn.

Thứ tư, với “Chính sách hành động hướng Đông”, Ấn Độ đang hăng hái làm việc để tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, cả song phương lẫn thông qua việc tích cực tham gia các diễn đàn đối thoại của ASEAN. Kết nối thực chất với ASEAN thông qua Myanmar và Thái Lan củng cố sự ưu tiên mà chính sách ngoại giao Ấn Độ gắn liền với việc hội nhập sâu hơn về kinh tế và quan hệ nhân dân gần gũi hơn với các nước láng giềng ASEAN của họ.

Cuối cùng, Ấn Độ tham gia một sứ mệnh dân tộc là xây dựng sức mạnh quân sự và năng lực của chính mình nhằm đối phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống đang nổi lên trong khu vực.

Trong tương lai, có nhiều lựa chọn sẵn có cho tất cả các đối tác khu vực của Ấn Độ để đóng góp mạnh mẽ hơn cho lợi ích chung của một khu vực ổn định và an toàn. Trong trường hợp của Mỹ, điều quan trọng nhất là sự không nhất quán còn dai dẳng và việc thiếu một khuôn khổ chiến lược bao trùm trong chính sách của Chính quyền Trump đối với châu Á sẽ làm suy yếu các triển vọng cho sự ổn định và an ninh trong khu vực.

Thứ hai, Trung Quốc trước sau vẫn là nước hỗ trợ chiến lược cho Triều Tiên, từ đó làm suy yếu an ninh của Mỹ và các đồng minh của nước này là Nhật Bản và Hàn Quốc. Do đó, Mỹ phải đặt cơ sở cho các chính sách của họ đối với khu vực Đông Bắc Á dựa trên sự hiểu biết rằng Trung Quốc chính là vấn đề và không thể là một phần của giải pháp.

Thứ ba, Mỹ và các đối tác của họ – Ấn Độ, Nhật Bản và Úc – cần phải cân nhắc các lựa chọn chính trị và quân sự để đối phó với một Trung Quốc quyết đoán và chưa thỏa mãn về lãnh thổ.

Thứ tư, để khôi phục cán cân sức mạnh toàn cầu và sự cân bằng khu vực ở Đông Bắc Á, Mỹ phải đảo ngược vòng xoáy đi xuống trong quan hệ Nga-Mỹ và ngừng đẩy Nga rơi sâu hơn vào “vòng tay” của Trung Quốc.

Thứ năm, Mỹ phải tự kéo mình thoát khỏi tâm trạng cô lập “hướng nội” hiện nay và thể hiện vai trò lãnh đạo trong các vấn đề toàn cầu từ kinh tế thế giới cho đến biến đổi khí hậu. Việc từ bỏ vai trò lãnh đạo trong những vấn đề như vậy sẽ làm suy yếu quyền lực mềm của Mỹ.

Trong trường hợp của Nhật Bản, sau chiến thắng lẫy lừng của Abe trong cuộc bầu cử ngày 24/10/2017, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản phải tham gia một cách hiệu quả vào sự cân bằng khu vực ở Đông Bắc Á, ở Biển Đông cũng như ở Ấn Độ Dương. Để làm được điều này, Nhật Bản phải trở thành một quốc gia “bình thường” và tự giải phóng mình khỏi những kìm hãm do hiến pháp áp đặt mà trên thực tế làm hạn chế vai trò quân sự của họ với tư cách là một nước lớn.

Tương tự, Nhật Bản phải tiếp tục xây dựng dựa trên các cơ chế về thể chế cho phép nước này bán các trang thiết bị và công nghệ quốc phòng cho các nước lớn thân thiện như Ấn Độ nhằm tăng cường khả năng chống lại các mối đe dọa đang gia tăng đối với an ninh của họ.

Nhằm củng cố vị thế của mình trong cán cân sức mạnh ở khu vực Đông Bắc Á, Nhật Bản cần hăng hái theo đuổi một giải pháp cho vấn đề lãnh thổ phía Bắc với Nga trên cơ sở thỏa hiệp. Các tiền lệ trong lịch sử cho thấy những nỗ lực hiện nay nhằm đảm bảo việc trả lại đảo bằng cách đưa ra các ưu đãi kinh tế cho Nga có khả năng kết thúc trong thất bại liên tiếp.

Bất chấp liên minh với Mỹ, đã đến lúc Nhật Bản phải khẳng định mình trong khu vực như là một bên tham gia độc lập trong ngoại giao và quốc phòng. Các tuyên bố của Triều Tiên cho rằng nước Mỹ lục địa nằm trong tầm với của tên lửa của nước này, nếu được đánh giá là chính xác, cuối cùng sẽ đặt ra câu hỏi về giá trị của sự răn đe kéo dài của Mỹ.

Về phần mình, Úc cần phải bớt lo lắng về những phí tổn ngắn hạn của việc đối đầu với Trung Quốc trong các vấn đề cụ thể của khu vực và lo lắng nhiều hơn về triển vọng trong trung và dài hạn là phải sống trong Pax Sinica (“nền hòa bình kiểu Trung Quốc”).

Một cách để giảm bớt lợi thế đòn bẩy của Trung Quốc trong các vấn đề kinh tế sẽ là đa dạng hóa các đối tác thương mại và đầu tư của Úc và giảm sự phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu sang Trung Quốc.

Cùng với nhau, 3 mục tiêu khái quát dường như có tầm quan trọng đáng kể. Trước hết, là một phần trong chính sách “hành động hướng Đông”, Ấn Độ cần phải nỗ lực hội nhập sâu hơn nữa – về thương mại, kết nối, văn hóa và an ninh – với khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Thứ hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã phá thế vỡ cân bằng khu vực, và kết quả là khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương đã và đang chứng kiến một sự gia tăng căng thẳng và xung đột. Bằng cách hành động phối hợp với nhau, Mỹ và các cường quốc khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản và Úc phải thúc đẩy Trung Quốc hướng tới công nhận hơn nữa tính chất đa cực ở châu Á và làm việc để tiết chế lợi thế đòn bẩy về địa chính trị và địa kinh tế của Trung Quốc trên toàn cầu và ở châu Á. Điều này đòi hỏi phải giảm mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với Trung Quốc và đa dạng hóa các quan hệ đối tác thương mại, đầu tư và kinh tế nhằm khôi phục sự cân bằng địa kinh tế trong quan hệ với Trung Quốc.

Nhằm khôi phục hoàn toàn sự cân bằng sức mạnh trong khu vực và giảm căng thẳng ở Ấn Độ – Thái Bình Dương, Mỹ và các nước lớn trong khu vực cần phải sắp xếp lại các ưu tiên của họ và làm việc cùng nhau để tạo thế cân bằng trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG

Tags: , ,