Quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc: Lộ trình chiến lược của Ấn Độ

Các tín hiệu chiến thuật thể hiện tình hữu nghị của Trung Quốc đối với Ấn Độ có khả năng là không kéo dài. Trong nay mai, Trung Quốc có khả năng sẽ quay sang chống lại Ấn Độ, trừ khi New Delhi sẵn sàng ủng hộ hoặc tiếp tục giữ thái độ trung lập đối với các chính sách bành trướng của Trung Quốc.

Bài viết của tác giả T. V. Paul, giáo sư về Quan hệ Quốc tế tại Đại học McGill, Canada, nguyên giám đốc Hiệp hội Nghiên cứu Quốc tế. Ông là chủ biên cuốn The China-India Rivalry in the Globalization Era vừa mới được Nhà xuất bản Đại học Georgetown xuất bản. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Trong nay mai, Trung Quốc có khả năng sẽ quay sang chống lại Ấn Độ. New Delhi phải sẵn sàng cho thời khắc đó.

Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã phát triển nhiều chiến lược để đối phó với sự trỗi dậy và những động thái mang tính đe dọa của Trung Quốc ở cả khu vực biên giới đất liền của họ lẫn khu vực Ấn Độ Dương. Chúng bao gồm sự cân bằng có giới hạn dựa trên việc tăng cường lực lượng phi đối xứng và các liên minh không chính thức với các nước có chung lập trường và can dự ngoại giao thường xuyên với Bắc Kinh theo hình thức song phương cũng như thông qua các diễn đàn đa phương. Nhưng những nỗ lực cân bằng mềm phi truyền thống đáng kể nhất nằm ở việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược có giới hạn với Mỹ và Nhật Bản cũng như tham gia diễn đàn ASEAN, bên cạnh các tổ chức khu vực như Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO). Chiến lược này cũng dựa trên quyền phủ quyết về mặt thể chế bằng việc không nhất trí để Trung Quốc trở thành thành viên Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á và rõ nhất là việc từ chối tham gia Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI). Đã có một số nỗ lực trong việc xây dựng các sáng kiến hợp tác kinh tế đối trọng cùng các quốc gia trong khu vực như những lựa chọn thay thế cho BRI. Hành lang tăng trưởng châu Phi với Nhật Bản được lên kế hoạch vào năm 2017 như một lựa chọn có giới hạn thay thế cho BRI, tuy còn chưa được định hình một cách đầy đủ.

Không có bất kỳ lựa chọn chiến lược nào trong số này làm giảm bớt những khác biệt rõ ràng trong cách hành xử của Bắc Kinh đối với Ấn Độ. Như tác giả đã phân tích trong cuốn sách của ông “Sự đối đầu Trung-Ấn trong kỷ nguyên toàn cầu hóa” mà Nhà xuất bản Đại học Georgetown vừa mới phát hành, quan hệ giữa 2 gã khổng lồ châu Á vẫn tiếp tục trong tình trạng đối đầu có kiểm soát với những thăng trầm thể hiện ở những tương tác thiện chí hay thù địch. Toàn cầu hóa kinh tế đã giúp giảm thiểu mức độ căng thẳng của sự đối đầu, nhưng không thể xóa bỏ các vấn đề mà ở đó hai nước cạnh tranh với nhau. Kể từ tháng 5/2018, tình trạng lắng dịu có giới hạn có thể nhận thấy vì Trung Quốc đang phải đối mặt với những sức ép kinh tế đáng kể từ Chính quyền Trump. Cuộc gặp thượng đỉnh giữa Modi và Tập Cận Bình tại Vũ Hán vào tháng 5/2018 và một vài cuộc gặp giữa 2 nhà lãnh đạo tại các diễn đàn như SCO và Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) đã giúp giảm bớt căng thẳng kể từ cuộc đối đầu hồi tháng 7-8/2017 tại cao nguyên Doklam ở ngã ba biên giới Bhutan-Trung Quốc-Ấn Độ. Các chính sách thương mại của Chính quyền Trump đã gây ra những lo ngại ở cả Trung Quốc và Ấn Độ khi Mỹ áp đặt các khoản thuế lên cả hai quốc gia này, mặc dù New Delhi đã cố gắng phát triển mối quan hệ kinh tế chiến lược đã được cải thiện với Washington. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đặt ra thách thức lớn nhất đối với các lợi ích cốt lõi của Ấn Độ bởi những mục tiêu lớn hơn của Bắc Kinh tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mâu thuẫn với những mục tiêu của Ấn Độ. Cho tới nay, phản ứng của Ấn Độ vẫn bị hạn chế trước các chính sách bành trướng của Trung Quốc. Vì sao những lựa chọn chiến lược của Ấn Độ lại bị hạn chế như vậy và vì sao cân bằng mềm lại trở thành công cụ chiến lược quan trọng đến vậy đối với Ấn Độ?

Có 4 lý do then chốt.

Lý do thứ nhất là kinh tế. Trung Quốc đã nổi lên như là đối tác thương mại hàng đầu của Ấn Độ và trong năm 2017, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Ấn Độ đạt 84 tỷ USD, trong đó, thặng dư thương mại 52 tỷ USD nghiêng về phía Bắc Kinh. Bất chấp mọi sự phản đối từ Ấn Độ, khoảng cách thương mại to lớn này có vẻ không sớm thay đổi, khi mà ngành sản xuất và tiêu dùng của Ấn Độ vẫn phụ thuộc rất nhiều vào những sản phẩm Trung Quốc bởi yếu tố giá cả và nhiều lý do khác. Chiến lược thay thế của Ấn Độ nhằm thúc đẩy các sản phẩm nội địa thông qua chương trình “Make in India” vẫn chưa tiến triển nhiều trước những đòn tấn công kinh tế của Trung Quốc.

Lý do thứ hai là sự thiếu vắng những đối tác tin cậy để cùng gia nhập một liên minh cân bằng không bị cản trở bởi chiến lược chia rẽ của Trung Quốc. Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Ấn Độ luôn đòi hỏi phải có một nỗ lực để đảm bảo rằng Ấn Độ không thành lập các liên minh cân bằng tích cực với các bên, bao gồm Mỹ, Nhật Bản và Úc – gọi là nhóm Bộ Tứ. Đây là một hình thức của chiến lược chia rẽ, và Trung Quốc đã triển khai chiến lược này ở các khu vực khác nhau bằng cách lôi kéo các đối tác tiềm năng tại khu vực Đông Nam Á và những nơi khác thông qua chính sách kinh tế “cây gậy và củ cà rốt”.

Lý do thứ ba là chiến lược của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump. Trump không đưa ra được một tầm nhìn chiến lược sâu sắc về Ấn Độ như những người tiền nhiệm George W. Bush và Barack Obama từng làm. Trump muốn nước Mỹ rút khỏi càng nhiều cam kết càng tốt, bao gồm cả những cam kết có liên quan đến Ấn Độ, mà không nhận ra mức độ khó khăn của việc tái thiết mối quan hệ giữa “hai nền dân chủ bị ly gián”. Trong 70 năm qua, hầu như mọi quan hệ đối tác với đồng minh của Mỹ đều được xây dựng xoay quanh quan hệ kinh tế và quân sự giữa họ. Trump đang áp đặt thuế quan kinh tế đối với cả đồng minh lẫn đối thủ, với hy vọng chia rẽ 2 loại đối tượng này. Ấn Độ cũng nằm trong danh sách các quốc gia bị nhắm tới. Ngoài ra, chính sách nhập cư của Trump, đặc biệt là việc hạn chế cấp thị thực H-1 và thị thực sinh viên, đang gây khó khăn cho những người Ấn Độ có ý định xin hơn là công dân của đa số các quốc gia khác. Những chính sách này hầu như không giúp ích gì cho việc thắt chặt quan hệ với Ấn Độ và vì vậy, Modi giờ đây quyết định theo đuổi một chiến lược có tính nhân nhượng với Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo của Trump, Mỹ không phải là một đối tác tin cậy trong mắt hầu hết các quốc gia đồng minh, bao gồm cả Ấn Độ.

Sự thiếu vắng các đối tác tin cậy là một thử thách phần nào bởi Ấn Độ không thể đáp ứng những yêu cầu mà họ kỳ vọng ở New Delhi. Mỹ là một đối tác không đáng tin cậy đối với Ấn Độ bất chấp những tuyên bố thường xuyên thể hiện ý định nốt đẹp của nước này. Việc gỡ bỏ các lệnh cấm vận đối với Ấn Độ tại khu vực không phổ biến vũ khí hạt nhân thông qua Thỏa thuận hạt nhân Mỹ-Ấn 2005 là một hành động lớn mang tính tượng trưng, cho phép Ấn Độ tránh được nhiều hạn chế của một cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân. Ấn Độ từng được cho là sẽ mua một vài lò phản ứng của Mỹ, nhưng sự hồi sinh của hạt nhân ở Ấn Độ đã không xảy ra bởi quốc gia này không có khả năng xây dựng đạo luật chống trách nhiệm đủ mạnh. Trong khi đó, thảm họa Fukushima tại Nhật Bản đã khiến nhiều người bi quan về vấn đề hạt nhân, kiềm chế sự tăng trưởng của ngành công nghiệp dân dụng này trên toàn thế giới.

Sau cùng, Ấn Độ có một bản năng mãnh liệt về quyền tự chủ chiến lược, một dư chấn từ những ngày không liên kết với các quốc gia khác. Bất cứ khi nào áp lực từ nhiều nước lớn gia tăng, Ấn Độ đều thấy việc quay trở lại với sự tự chủ chiến lược là một lựa chọn hấp dẫn. Giờ đây, Ấn Độ lại một lần nữa cho thấy rằng họ có thể theo đuổi quyền tự chủ hơn bất kỳ chiến lược nào khác vì những mối đe dọa dưới những biểu hiện khác nhau từ Trung Quốc và Mỹ.

Các chính sách không dứt khoát của Mỹ

Trong khi đó, Mỹ lại bị phân tâm bởi một số vấn đề khác cần phải cân nhắc. Một trong số đó là những tương tác của họ với Trung Quốc. Chính quyền Trump, bất chấp những đe dọa về trừng phạt thương mại, đã không thể dẫn dắt một liên minh cân bằng hiệu quả chống lại Bắc Kinh, và điều này thể hiện ở sự bất lực của họ trong việc ngăn chặn 2 hoạt động của Trung Quốc là cải tạo các đảo và củng cố hải quân ở Biển Đông, cùng với sự hiện diện ngày càng tăng của hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.

Chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Obama đã không thể hạn chế sự bành trướng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Hiệu ứng răn đe của chiến lược này là không có. Thay vào đó, bằng cách giúp gây ra nỗi sợ hãi về sự ngăn chặn trong tương lai, nó có thể khuyến khích Bắc Kinh đẩy nhanh sự bành trướng của hải quân nước họ. Bởi vậy, Trung Quốc đã nhận ra một thời cơ ngắn hạn để tối đa hóa sự hiện diện chiến lược của họ trên Biển Đông và Ấn Độ Dương trước khi Mỹ điều thêm lực lượng và triển khai quân sự.

Quan trọng hơn, việc Mỹ rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có ý nghĩa then chốt đã báo hiệu cho Trung Quốc rằng việc cân bằng mềm thông qua công cụ kinh tế đặc biệt này sẽ không xảy ra. Việc Chính quyền Trump không quan tâm đến thể chế khu vực cũng sẽ cản trở những nỗ lực cân bằng mềm. Washington đang phát triển các vũ khí hạng nặng, bao gồm cả tàu sân bay, để triển khai tại khu vực Thái Bình Dương, nhưng Bắc Kinh không lên kế hoạch cho một cuộc chạy đua vũ trang quy mô lớn dựa trên một chiến lược tương đương. Việc Trung Quốc tăng dần tốc độ quân sự hóa khu vực không tạo ra một cuộc khủng hoảng trong tương lai gần, và Mỹ chưa từng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ trong nước và quốc tế để đương đầu với Trung Quốc trong tâm thế phòng ngừa. Các cuộc tập trận quân sự chung không thường xuyên như cuộc tập trận Malabar và các chuyến thăm của lực lượng hải quân trên cơ sở quyền tự do hàng hải ở Biển Đông không có tác dụng kiềm chế – chứ chưa nói đến việc ngăn chặn.

Trung Quốc đang sử dụng toàn cầu hóa kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau để mở rộng quân sự và hải quân của họ theo phương thức mà không bên nào cảm thấy rằng mối đe dọa là đủ mạnh để biện minh cho những phí tổn của việc đối trọng với Trung Quốc một cách hiệu quả và khẩn cấp. Để các liên minh cân bằng hiệu quả có thể xuất hiện, mối đe dọa an ninh phải được các quốc gia bị ảnh hưởng nhìn nhận một cách nghiêm túc.

Do vậy, Ấn Độ, giống như các đồng minh tiềm tàng khác của Nhật Bản và Mỹ, bị cản trở trong việc triển khai bất kỳ chiến lược nào vượt ra ngoài sự cân bằng cứng có giới hạn và cân bằng mềm có phần nào mạnh mẽ với Trung Quốc. Sự cân bằng cứng có giới hạn phụ thuộc vào việc mua sắm và triển khai vũ khí không cân xứng, nhưng sự cân bằng mềm dựa vào các thể chế khu vực và quốc tế cũng như các quan hệ đối tác chiến lược cấp thấp hơn để kiềm chế hành vi đe dọa của Trung Quốc. Thông điệp có chủ đích này có lẽ là những công cụ cân bằng mềm kia có thể được nâng cấp lên thành cân bằng cứng nếu các mối đe dọa vượt quá giới hạn. Có thể các đồng minh ở Đông Nam Á, đặc biệt là các nước ASEAN như Việt Nam và Indonesia, cũng không muốn tích cực đối trọng với Trung Quốc, cho dù Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Singapore có phần quan tâm đến cân bằng mềm – và điều này đang mang lại cho Ấn Độ nhiều cơ hội hơn về mặt này.

Vậy Ấn Độ còn lại những lựa chọn chiến lược nào? Việc tiếp tục cân bằng ở mức độ thấp như hiện tại không phải là một chiến lược tồi, bởi sự phòng vệ sẽ cho phép Ấn Độ có được khả năng cơ động theo kiểu nào đó trong ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, Ấn Độ cần một giải pháp thay thế cho BRI, và đây chính là nơi New Delhi có thể có cơ hội xây dựng hoặc tái thiết các liên kết của họ với những nước láng giềng và xa hơn nữa. Hành lang tăng trưởng Á-Phi do Nhật Bản và Ấn Độ khởi xướng vào tháng 5/2017 vẫn chưa được hoàn tất. Việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng có chất lượng, kết nối kỹ thuật, cải thiện y tế và nông nghiệp cũng như phát triển kỹ năng cho người dân ở các quốc gia châu Phi và châu Á được cho là câu trả lời cho BRI của Trung Quốc. Cũng có một kế hoạch được Nhật Bản hỗ trợ nhằm phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng Đông Bắc Ấn Độ, kết nối khu vực này với Đông Nam Á và Trung Quốc. Kế hoạch này cũng có thể cho phép liên kết với các thành tố cấu thành BRI được chọn nếu Trung Quốc sẵn sàng hợp tác một cách có chọn lọc. Việc không để tất cả các nước láng giềng rơi vào mối quan hệ phụ thuộc với Trung Quốc nằm trong mối quan tâm của Ấn Độ, mặc dù New Delhi vẫn cần giữ Mỹ, Nhật Bản, ASEAN và Úc như những đồng minh tiềm năng trong trường hợp chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc phát triển theo chiều hướng bất lợi cho họ.

Tự chủ chiến lược hoặc một hình thức không liên kết có thể là một lựa chọn khác, nhưng điều này không hẳn sẽ đem lại an ninh cho Ấn Độ trong bối cảnh hiện tại, bởi Trung Quốc không có vẻ là sẽ tôn trọng chủ quyền của Ấn Độ. Thay vào đó, họ có thể sẽ mong chờ một thái độ sùng kính và trung thành với những kế hoạch bành trướng của họ. Để Trung Quốc đạt được các mục tiêu chiến lược của mình, Trung Quốc cần phải làm suy yếu Ấn Độ như một kẻ thách thức trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương hoặc nếu không thì phải xoa dịu những sự phản đối có thể có từ phía Ấn Độ.

Các tín hiệu chiến thuật thể hiện tình hữu nghị của Trung Quốc có khả năng là không kéo dài. Trong nay mai, Trung Quốc có khả năng sẽ quay sang chống lại Ấn Độ, trừ khi New Delhi sẵn sàng ủng hộ hoặc tiếp tục giữ thái độ trung lập đối với các chính sách bành trướng của Trung Quốc. Điều này là bởi các mục tiêu của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình đều mang đầy tham vọng: Họ tìm cách thay thế nước Mỹ với tư cách cường quốc bá quyền tiếp theo, điều mà Ấn Độ sẽ mất một khoảng thời gian khó khăn để chuẩn bị. Khi Trung Quốc theo đuổi mục tiêu này, họ sẽ phải mở rộng sự hiện diện hải quân của mình ở Ấn Độ Dương khi các khoản đầu tư kinh tế trong khuôn khổ những dự án BRI tăng lên, điều sẽ khiến cho Ấn Độ cảm thấy bị đe dọa.

Ấn Độ có một tầm nhìn chiến lược hay không?

Sự thiếu vắng một tầm nhìn chiến lược thích hợp ở Washington lúc này đã hạn chế các lựa chọn chiến lược của Ấn Độ. Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng Ấn Độ cũng thiếu một tầm nhìn chiến lược? Giới tinh hoa và xã hội Ấn Độ nói chung có nhận thức được những thách thức mà quốc gia này phải đối mặt trong các cuộc cạnh tranh chiến lược đang diễn ra tại khu vực hay không? Ấn Độ có thể làm gì để tránh bị các bên tham gia hùng mạnh chinh phục một lần nữa, nếu không phải là trực tiếp trong lần này? Hội chứng Công ty Đông Ấn liệu có lặp lại hay không? BRI của Trung Quốc chứa nhiều yếu tố của hội chứng Công ty Đông Ấn, như việc mở các trạm thông thương buôn bán và sau đó biến chúng thành các căn cứ hải quân – một tiến trình sẽ đặt các đại dương dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. Những chính sách của Trung Quốc đang biến các bên tham gia nhỏ hơn thành các khách hàng lệ thuộc quá mức, và họ sẽ phải đưa ra những nhượng bộ đáng kể về lãnh thổ và kinh tế đối với Trung Quốc, như sự việc đã xảy ra với Sri Lanka liên quan đến thỏa thuận cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota trong 99 năm hồi tháng 12/2017. Tình huống này có đôi chút giống với việc người Anh mua lại Hong Kong và Macau từ một đế quốc Trung Hoa yếu ớt vào thế kỷ 19. Trung Quốc cũng đã đưa một số lượng lớn lao động nước này vào các dự án xây dựng và khuyến khích người dân của họ mua nhà và bất động sản mà họ đã phát triển trên các quốc đảo này. Họ ngày càng can dự vào nền chính trị trong nước của các quốc gia lệ thuộc, chiến thuật mà các công ty Đông Ấn cũng từng áp dụng.

Một chiến lược lớn có thể không đưa ra tất cả các câu trả lời, nhưng các chiến lược khiến một quốc gia sẵn sàng đối mặt với những tình huống bất ngờ khác nhau là cần thiết để quốc gia đó tồn tại và phát triển trong một môi trường quốc tế cạnh tranh cao độ. Việc gắn kết thành tựu trong nước với thành tựu quốc tế cũng có ý nghĩa then chốt. Đây là điểm Ấn Độ còn tụt hậu. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, trên 7% ở thời điểm hiện tại, nhưng họ vẫn phải đối mặt với tất cả mọi thách thức của một quốc gia yếu kém, chẳng hạn như việc không thể cung cấp hàng hóa công cộng cơ bản, dù là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nguồn nước, giáo dục, điện hay dịch vụ y tế. Quy hoạch và phát triển đô thị đã lỗi thời, trong khi các tiêu chuẩn vệ sinh của Ấn Độ trong trường hợp tốt nhất vẫn có vẻ như đang ở thời trung cổ. Giới chính trị và quan chức Ấn Độ vẫn chưa nhận thức được sự cần thiết phải trở thành những nhân tố phát triển mạnh mẽ để khẩn trương biến đổi đất nước. Nhiều người trong số họ dường như quan tâm hơn đến việc vơ vét tài sản cá nhân gây thiệt hại cho nhà nước và các cơ quan nhà nước. Ngay cả khi họ là những người ủng hộ sự phát triển, thì tốc độ chậm chạp của họ trong phê duyệt và thực hiện các đề án phát triển trên thực tế đang gây bất lợi đến mục tiêu lớn hơn của Ấn Độ là nổi lên như một cường quốc toàn cầu có thể chống lại những thách thức từ Trung Quốc và các quốc gia khác. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc Ấn Độ có thể nổi lên như một cường quốc hàng đầu để cạnh tranh và đi theo. Hoạt động chính trị liên quan đến bầu cử ở Ấn Độ đang tạo ra nhiều xu hướng dẫn tới một nền dân chủ mong manh, với việc các lực lượng cộng đồng đang ngày càng định hình chương trình nghị sự của quốc gia này. Một thể chế chính trị bảo thủ sẽ làm tổn hại đáng kể đến quyền lực mềm của Ấn Độ cũng như tuyên bố về vai trò lãnh đạo toàn cầu của quốc gia này. Phải có điều gì đó để các nước khác có thể học tập hoặc đánh giá cao trong cách quản trị và cơ cấu kinh tế-chính trị của một cường quốc toàn cầu. Vì vậy, một chiến lược lớn hiệu quả phải xuất phát từ trong nước.

Những thách thức chiến lược mà thế kỷ 21 mang lại cho Ấn Độ rất đa dạng. New Delhi cần nhanh nhẹn hơn nhiều trong công tác ngoại giao và cần phát triển các công cụ khác nhau cho mục đích cân bằng và hội nhập. Cân bằng mềm sử dụng các tổ chức quốc tế và khu vực, những liên kết có giới hạn và các công cụ kinh tế như quyền từ chối là những thành tố then chốt – ngay cả khi nước này phát triển năng lực phòng thủ và răn đe mạnh mẽ cho mục tiêu cân bằng cứng. Sự can dự ngoại giao cũng quan trọng không kém, nhưng các cuộc gặp và thỏa thuận cấp thượng đỉnh cần được hoàn tất và các quyết định phải được thực hiện một cách kịp thời. Các động thái chiến thuật của các nhà lãnh đạo cần được thể hiện thành những chính sách chiến lược lớn có tính cố kết. Việc tránh cạnh tranh khốc liệt với Trung Quốc là điều cần thiết đối với Ấn Độ để phát triển kinh tế, mặc dù sự nổi lên của họ có thể bị cản trở bởi áp lực ngày càng tăng từ quốc tế, khu vực và trong nước.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG

Tags: , ,