Lịch sử hình thành và phát triển của nền điện ảnh Hàn Quốc

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, giờ đây có thể nói nền điện ảnh Hàn Quốc đang ngày một lớn mạnh và trong một tương lai không xa rất có thể trở thành đất nước có nền điện ảnh lớn nhất khu vực Châu Á.

Thời kỳ 1903 – 1945 : Bán đảo Triều Tiên bị Nhật Bản cai trị

Đa số phim Triều Tiên của thời kỳ này bị phá hủy trong những năm chiến tranh Bắc Nam nhưng các tư liệu còn lại cho thấy kỹ nghệ điện ảnh Triều Tiên đã có bước phôi thai từ những năm giữa thập niên 1920 trước khi Nhật xâm lược Trung Quốc (1937). Từ 1909 – 1920, một loạt nhà hát được xây dựng tại Seoul và các thành phố khác như Pusan và Pyongyang mà đa số là người Nhật làm chủ trừ một số ít của người Triều Tiên dùng để chiếu các phim nhập từ Châu Âu và Châu Mỹ. Số tiền thu được sẽ dùng để sản xuất các bộ phim nội địa và bộ phim đầu tiên thuộc thể loại kinodrama được chiếu tại nhà hát Dangsonga ở Seoul (1919). Người xem chấp nhận nhưng giới trí thức chê là loại phim này làm hạ thấp giá trị nghệ thuật của cả phim lẫn kịch. Năm 1923, bộ phim câm đầu tiên của Triều Tiên ra đời và vài năm sau đó có bảy công ty phim được thành lập. Kiệt tác của thời kỳ này là Arirang (1926) do Na Un Kyu 25 tuổi đạo diễn sản xuất và đóng vai chính.

Phim chống lại sự tra tấn của cảnh sát Nhật và đóng góp vào phong trào đòi độc lập của người dân Triều Tiên. Năm 1935, kỹ nghệ phim tiếp tục phát triển với sự ra đời của bộ phim có tiếng nói đầu tiên Chunhyang – jon. Tuy nhiên, hai năm sau đó khi Nhật xâm lược Trung Hoa, kỹ nghệ điện ảnh trở thành công cụ tuyên truyền của người Nhật.

Thời kỳ 1945 – 1955:

Chỉ có 5 phim tồn tại vào thời kỳ này (từ lúc Mỹ chiếm đóng đến lúc kết thúc chiến tranh Triều Tiên). Trong những năm sau chiến tranh, Hàn Quốc nhập được trang thiết bị và kỹ thuật dựng phim từ các chương trình viện trợ của nước ngoài tạo bàn đạp cho sự phục hồi điện ảnh Hàn Quốc vào những năm cuối 1950 và đầu 1960.

Thời kỳ 1955 –- 1969: Thời đại vàng của điện ảnh Hàn Quốc.

Nửa cuối những năm 50 có thể được xem như giai đoạn phục hồi của kỹ nghệ điện ảnh Hàn Quốc khi một số bộ phim sản xuất trong nước tăng từ 8 (1954) đến 108 (1959). Khán giả cũng trở lại với các rạp chiếu phim để thưởng thức những bộ phim như Chunhyang – jon (phim làm lại năm 1955) với 200.000 người xem ở Seoul (1/10 dân số thủ đô lúc đó). Các bộ phim hành động và phim truyện chiếm đa số lượng phim xuất xưởng của thời kỳ này. Đầu thập niên 1960 chứng kiến sự xuất hiện của các đạo diễn Hàn Quốc tài năng nhất. Doanh thu tiền bán vé cũng tăng mạnh. Năm 1962, nhà độc tài Park Chung Hee ban hành Luật điện ảnh buộc tất cả các hãng sản xuất phim phải sản xuất tối thiểu 15 phim một năm và phim phải mang tính chất thương mại. Tuy nhiên, phim nghệ thuật gắn với thực tại vẫn ra đời. Cố đạo diễn Kim Ki Young sản xuất The Housemaid năm 1960. Đây là bộ phim nổi tiếng nhất của ông kể chuyện một người tớ gái quyến rũ ông chủ. Cũng như các phim khác của Ki Young , The Housemaid đề cao sức mạnh của người phụ nữ. Sau đó, phim của ông gần như bị lãng quên đến tận những năm 1990 mới được chiếu lại và đặt Ki Young vào đúng chỗ trong lịch sử của nền điện ảnh Hàn Quốc. Một tài năng khác nổi lên trong thời kỳ này là Yu Hyun Mok với bộ phim Obaltan (1961).

Còn đạo diễn gây tranh cãi nhất Hàn Quốc Shin Shang Ok thì có The Houseguest & My mother (1961) nói về một goá phụ trẻ yêu người tá điền của mình nhưng không dám nói vì qui luật khắt khe của xã hội về giai cấp giàu nghèo. Năm 1967 Sang Ok lại gây sốc lần nữa bằng bộ phim The Dream nói về một tăng lữ dâm loạn. Năm 1968 và 1969, ông cung cấp cho người xem hai phim nữa : Eunuch & Women of the Yi Dynasty. Năm 1978 sau khi thực hiện được 80 bộ phim tài Hàn Quốc, Sang Ok và vợ sang sống tại Bắc Triều Tiên trước khi đến Hollywood và cho ra đời bộ phim Three Ninjas với tên mới Simon Sheen.

Thời kỳ 1970:

Thời kỳ này đa số công chúng Hàn Quốc xa lánh với nền điện ảnh trong khi sự can thiệp và kiểm duyệt ngày càng gây khó khăn cho các nhà làm phim. Năm 1973, Hội khuyến khích điện ảnh Hàn Quốc được thành lập để khôi phục lại kỹ nghệ điện ảnh nhưng phải đến những năm 1980, điện ảnh Hàn Quốc mới thực sự lấy lại được sức sống.

Thời kỳ 1980 – 1992:

Chính thế hệ các đạo diễn mới đã giúp cho kỹ nghệ điện ảnh Hàn Quốc hồi sinh. Thập niên 1980 chứng kiến sự trở lại rạp chiếu phim của công chúng và sự thừa nhận quốc tế đối với điện ảnh Hàn Quốc mà cao điểm là giải thưởng nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất dành cho Kang Su Yeon tại Liên hoan phim Venice 1987. Đa số các nhà phê bình phim đồng ý tên tuổi xuất sắc nhất trong thời kỳ này là đạo diễn Im Kwok Taek. Dù ông đã đạo diễn khoảng 70 phim tính đến năm 1980 nhưng ông chỉ được xem là đạo diễn nổi tiếng nhất Hàn Quốc khi bộ phim Mandala ra đời (1981). Thoát khỏi cách làm phi thương mại cố hữu, Mandala đánh dấu bước ngoặt của Im Kwok Taek.

Bộ phim Sopyonje (1993) của ông đã làm sống lại nghệ thuật phát âm Hàn Quốc được gọi là Pansori. Đến nay Im Kwok Teak đã đạo diễn 95 phim và vẫn còn giữ vị trí trung tâm của điện ảnh Hàn Quốc. Năm 1988, có hai biến cố lớn ảnh hưởng đến kỹ nghệ điện ảnh Hàn Quốc: Tổng thống Roh Tae Woo ban hành hiến pháp mới cho phép bãi bỏ dần luật kiểm duyệt chính trị và quyết định thôi áp dụng các hạn chế đối với việc nhập phim nước ngoài. Đạo diễn Park Kwang Soo là người sớm biết tận dụng sự “cởi mở” trong kiểm duyệt để cho ra các bộ phim như Chilsu & Mansu (1988), Black Republic (1990) To The Starry Island (1993) và A Single Spark (1996). Luật nhập phim mới đã đẩy các nhà sàn xuất phim Hàn Quốc vào thế cạnh tranh trực tiếp với phim Hollywood và phim nội địa mất dần thị phần trong nước. Năm 1993, phim Hàn Quốc chỉ còn chiếm 16% số phim chiếu ở rạp. Để cứu vãn, các rạp hát bị buộc phải chiếu phim nội địa 106 ngày trong năm nhưng tình hình vẫn không sáng sủa hơn.

Thời kỳ 1992 –- 1999:

Marriage Story bộ phim đầu tay của Kim Ui Seok giới thiệu về thể loại phim hài chiến tranh pha chút tình dục. Bằng bộ phim này, hãng Samsung trở thành một tập đoàn kỹ nghệ đầu tiên tham gia vào làng điện ảnh đồng thời hợp nhất việc sản xuất, chiếu phim và phân phối phim làm một. Nhiều đạo diễn khởi nghiệp từ những năm 1980 tiếp tục cho ra các tác phẩm hay.

Jang Sun Woo được chú ý nhất với A Petal (1996) mô tả tình cảm của một người sống sót sau cuộc thảm sát Kwangju và Bad Movie (1997), phim tư liệu về tuổi trẻ Hàn Quốc (phim chỉ được chiếu sau khi hội đồng kiểm duyệt đã cắt bỏ một phần). Trong vài năm trở lại đây, nhiều đạo diễn Hàn Quốc đã gâu ấn tượng cho khán giả bằng các bộ phim đầu tay đoạt giải. Như bộ phim Green Fish (1997) của đạo diễn Lee Chang Dong nói về sự xung đột của một thiếu nữ dính líu vào một tổ chức tội ác sau khi rời quân ngũ. Năm 1997, bộ phim The Contact của Chang Yoon Hyun được xem là bước đột phá về doanh thu của phim nội địa và Swiri, phim đạt kỷ lục doanh thu trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc.

Thời kỳ 1999 đến nay:

Thành công của bộ phim Swiri không chỉ gây tiếng vang trong nước mà còn vượt xa hơn nữa. Han Suk Kyu trở thành một tên tuổi lớn và những bộ phim mang tính chất chính trị lần lượt ra đời như Anarchists – Yoo Young Sik, Joint Security Area – Park Chan Wook, 2009 Lost Memory – Lee Si Myung, Double Agent – Kim Hyun Jung…Nền điện ảnh Hàn Quốc mở rộng hơn khi hợp tác cùng với các nước bạn cho ra đời những bộ phim hay như Bichunmoo – Kim Young Joon, Three – Kim Ji Woon…

Phim Hàn Quốc bắt đầu cuộc chinh phục đến các nước láng giềng và gần như đạp đổ vị trí độc tôn của điện ảnh Hong Kong tại Châu Á. Không những thế cuộc chinh phục Hollywood cũng đã khởi động khi Hollywood mua bản quyền bộ phim My wife is a Gangster để làm lại. Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, giờ đây có thể nói nền điện ảnh Hàn Quốc đang ngày một lớn mạnh và trong một tương lai không xa rất có thể trở thành đất nước có nền điện ảnh lớn nhất khu vực Châu Á.

S.T

Tags: ,