Frederic Chopin – người nhạc sĩ vĩ đại của cây đàn piano

F. Chopin đã sáng tạo ở nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, nhưng có ý nghĩa nhất trong toàn bộ sự nghiệp nghệ thuật của ông vẫn là những tác phẩm viết cho đàn piano diễn tấu.

Frederic Chopin – người nhạc sĩ vĩ đại của cây đàn piano

Trong những năm 30 – 40 của thế kỷ 19, lịch sử âm nhạc thế giới đã được mở sang một trang mới bởi sự sáng tạo của 3 nhà soạn nhạc vĩ đại Frederic Chopin, M. Glinka và F. List. Cả 3 nhà soạn nhạc này là những đại diện xuất sắc của trường phái dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc. Trường phái này giữ vai trò quan trọng trong nền văn hóa âm nhạc toàn châu Âu nửa sau của thế kỷ 19. Đặc điểm nổi bật cần chú ý của Trường phái dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc là các nhạc sĩ sáng tác không chỉ khai thác chất liệu trên cơ sở nền văn hóa dân gian, mà họ luôn tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa nghệ thuật âm nhạc thế giới để làm giàu thêm kho tàng âm nhạc của chính dân tộc mình.

Trong cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật không dài của mình (ông mất khi mới 39 tuổi), F. Chopin đã sáng tạo ở nhiều thể loại âm nhạc khác nhau như: Mazurka, Polonez, Nocturne, Etude, Concerto, Trio, Sonata, ca khúc .v.v… Nhưng có ý nghĩa nhất trong toàn bộ sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của ông vẫn là những tác phẩm viết cho đàn piano diễn tấu. Đó là mảnh đất mà Chopin có thể thể hiện rõ nhất thiên tài sáng tạo nghệ thuật âm nhạc của mình. Đó là nơi tạo nên một thiên tài âm nhạc Chopin không chỉ ở phương diện tác phẩm mà cả ở tài năng biểu diễn xuất chúng của ông. Thậm chí, ngay cả với 2 concerto viết cho piano và dàn nhạc của ông (Bản số 1 giọng f – moll op. 21 và Bản số 2 giọng e – moll op.11) thì không ít người cho rằng nếu thay phần dàn nhạc bằng 1 piano thì cũng có thể có hiệu quả tương đương không thua kém sự diễn tấu của cả một dàn nhạc giao hưởng.

Frederic Chopin (tên đầy đủ là Frederick Francois Chopin) sinh ngày 1/3/1810 tại Zelazowa Wola (Ba Lan). Bố ông tên là Mikołaj (Nicolas) Chopin gốc là người Pháp nhưng đã từ lâu coi Ba Lan là Tổ quốc của mình. Còn mẹ ông là người Ba Lan tên là Tekla Justyna Krzyżanowska. Frederic Chopin sống ở Warsaw cho đến năm 20 tuổi. Giới trí thức nổi tiếng Ba Lan thường viếng thăm gia đình nhà Chopin. Và chính họ không chỉ mang đến cho Frederic Chopin nhiều hiểu biết mà còn có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quan điểm/khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật sau này.

Cũng tại gia đình của mình, từ nhỏ Frederic Chopin đã được sống trong không khí của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó, qua người mẹ, cậu thường xuyên được nghe những bài dân ca, được giáo dục qua đó tình yêu Tổ quốc. Cũng chính những năm tháng sống gần với thôn quê, được tắm mình trong không gian giàu bản sắc văn hóa dân gian Ba Lan đã không chỉ hình thành trong cậu bé Chopin tình yêu đối với văn hóa dân gian nơi đây, mà hơn thế nữa, đó chính là một từ những cội nguồn tạo nên phong cách sáng tạo nghệ thuật mang dấu ấn Frederic Chopin khi cậu đã trưởng thành.

Người thầy đầu tiên đã đưa Frederic Chopin đến với những tri thức âm nhạc chuyên nghiệp là Wojciech Żywny. Ông đã giảng cho Chopin ý nghĩa sâu xa trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc của Bach và các nhạc sĩ thuộc Trường phái âm nhạc cổ điển Viên, hướng Chopin đi tới tình yêu và niềm kính trọng nghệ thuật vĩ đại của họ.

Người thầy thứ hai của Frederic Chopin là Josep Elsner. Đầu tiên ông dạy Chopin hai môn hòa âm và đối vị. Sau đó ông dạy Chopin môn sáng tác âm nhạc trong khoảng thời gian từ 1826 đến 1829. Josep Elsner đánh giá cao tài năng âm nhạc của Chopin. Trong khi giảng dạy ông không bắt Chopin đi theo một con đường sáng tạo có sẵn nào mà luôn khuyến khích Chopin tìm con đường sáng tạo nghệ thuật riêng của mình. Đối với Chopin, con đường riêng này không chỉ ở lĩnh vực sáng tác cho đàn piano mà nó có mối liên hệ chặt chẽ với nghệ thuật diễn tấu trên cây đàn piano. Và thật vậy, về phương diện tác phẩm dành cho đàn piano, Chopin đã tạo được một phong cách sáng tạo độc đáo mang dấu ấn riêng của mình. Còn về phương diện nghệ thuật biểu diễn đàn piano, một phong cách biểu diễn Chopin đã được hình thành và khẳng định trên sân khấu hòa nhạc thế giới. Người ta đã, đang và sẽ còn nói nhiều đến những cách tân trong giai điệu, hòa thanh, khúc thức v.v.. của âm nhạc Chopin. Người ta cũng nói nhiều đến phong cách biểu diễn piano Chopin với những âm thanh dường như được hát lên qua đôi tay của người nghệ sĩ biểu diễn đàn piano với sự tinh tế tưởng như có cội nguồn sâu xa từ sự hòa hợp của hai dòng máu Pháp và Ba Lan trong sâu thẳm tâm hồn của nhà soạn nhạc vĩ đại. F. Chopin luôn kính trọng và giữ mối quan hệ dài lâu với người thầy Josep Elsner của mình.

Cho đến năm 1827, Frederic Chopin đã tạo được cho mình một diện mạo riêng trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc điển hình cho giai đoạn ông còn ở Warsaw. Trước hết đó là “Biến tấu trên chủ đề từ opera Don Juan cho piano và dàn nhạc giao hưởng op.2” Sau nữa là 2 Nocture đô thứ (c-moll)mi thứ (e-moll) op. 72.

Năm 1828 lần đầu tiên Frederic Chopin ra nước ngoài trong 2 tuần lễ. Trong thời gian ở Berlin (Đức) ông đã có cơ hội làm quen với hàng loạt các tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng. Nhưng có lẽ sự kiện có ý nghĩa lớn lao trong năm 1829 lại chính là những buổi hòa nhạc của danh cầm violon nổi tiếng thế giới Niccolo Paganini (1782-1840) tại Warsaw. Các buổi hòa nhạc đó đã để lại trong Chopin những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, làm dấy lên trong Chopin ý tưởng về sáng tác các etude cho cây đàn piano.

Rồi cũng mùa hè năm này Frederic Chopin đã đến Vienna biểu diễn các tác phẩm của mình trong 2 buổi hòa nhạc. Giới âm nhạc Viên đánh giá cao không chỉ màu sắc dân gian sống động trong các tác phẩm âm nhạc của Chopin, mà cả phong cách diễn tấu piano vô cùng đặc sắc của cậu. Và điều đó cũng có nghĩa Chopin cần phải có những chuyến đi biểu diễn ở nước ngoài, nghệ thuật âm nhạc của Chopin cần phải được khẳng định ở những trung tâm lớn trên thế giới.

Giai đoạn 1829 – 1831, Chopin đã sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc xuất sắc được coi là đỉnh cao của giai đoạn Chopin ở Warsaw. Đó là 2 concerto (giọng f-molle-moll), “Mười hai etudes op.10”, “Polonez huy hoàng lớn” giọng Es-dur op. 22 và nhiều tác phẩm khác.

Mùa thu năm 1830, Frederic Chopin trở lại Vienna lần thứ hai. Ông ở lại đây nửa năm rồi sau đó lên đường đi Paris và London. Trên đường đi, khi ở Stutgat ông rất buồn khi được biết tin về cuộc khởi nghĩa bất thành ở Ba Lan. Với tình cảm sâu sắc hướng về Tổ quốc của người công dân – nghệ sĩ, ông đã viết “Etude Cách mạng” giọng c-moll nổi tiếng.

Tháng 9 năm 1831, Chopin dừng chân tại Paris trên đường đến London. Thoạt đầu Chopin chỉ định dừng chân nơi đây ít ngày rồi đi London. Nhưng cuộc sống sôi động cùng những sinh hoạt nghệ thuật phong phú của Thủ đô Paris hoa lệ đã cuốn hút Chopin. Và khi đó ông cũng không hề nghĩ rằng, sự không thể trở lại Tổ quốc Ba Lan đã giữ Chopin lại đến hết cuộc đời mình. Ông chỉ đi ngắn ngày đến một số nước khác như: Đức, Áo và Anh.

Năm 1832, Frederic Chopin đã có buổi biểu diễn đầu tiên của mình trước công chúng Paris. Buổi biểu diễn đã được giới phê bình âm nhạc đánh giá cao, coi đó như sự phục hồi lại của âm nhạc piano. Nghệ thuật biểu diễn đàn piano của Chopin đã được đánh giá là hoàn hảo. Ông được coi là nghệ sĩ piano xuất sắc nhất thời đại, và trên thế giới chỉ có một đối thủ là F. List.

phần của sáng tạo nghệ thuật” và “phần làm công tác giảng dạy”. Nhiều tác phẩm hầu như chỉ được ông hoàn thành trong những chuyến đi xa khỏi Paris.

Những năm 1837 – 1838, Chopin chú ý nhiều đến các thể loại âm nhạc nhỏ như: Mazurka, Polonaise, Vanx, Nocturne .v.v.. Trong số đó có tập “Preludes” nổi tiếng được sáng tác trong khoảng từ năm 1836 đến năm 1839.

Vào cuối đời Frederic Chopin còn một chuyến đi tới nước Anh, nhưng điều kiện sức khỏe đã không cho phép ông tổ chức buổi hòa nhạc ở đó. Vì vậy, ông đã trở về Paris và mất ở đó vào ngày 17 tháng 10 năm 1849. Trái tim của nhà soạn nhạc, theo ước nguyện trước khi mất của ông, đã được chuyển về Tổ quốc Ba Lan và bảo quản trong nhà thờ Thánh Kresta ở Wasaw.

Một số tác phẩm cho piano của F. Chopin:

Mazurka (tất cả có gần 60 tác phẩm) trong số đó:

Op.6 có các bản: fis-moll, cis-moll, E-dur, es-moll (1830-1831).
Op.7 có: B-dur, a-moll, f-moll, As-dur, C-dur (1830-1831).
Op.17 có: B-dur, e-moll, As-dur (1832-1833).
Op.30 có: c-moll, h-moll, Des-dur, cis-moll (1836-1837).
Op33 có: gis-moll, D-dur, C-dur, h-moll (1837-1838).
Op.50 có: G-dur, As-dur, cis-moll (1841-1842).
Op.56 có: H-dur, C-dur, c-moll (1843).
Op.59 có: a-moll, As-dur, fis-moll (1845).
Op.63 có: H-dur, f-moll, cis-moll (1846).
Op.67 có: Số 4 giọng a-moll (1846 (1848?).
Op.68 có: Số 4 giọng f-moll (1849).

Nocturne (tất cả có khoảng 20 tác phẩm), trong số đó:

Op. 72/1 – e minor – 1829
Op. 15/3 – g minor – 1832
Op. 27/1 – c sharp minor – 1835
Op. 27/2 – D Major – 1835
Op. 37/1 – g minor – 1838
Op. 37/2 – G Major – 1839

Polonaise

Op. 71/1 – d minor – 1828
Op. 71/2 – B flat Major – 1828
Op. 71/3 – f minor – 1828
Op. 40/1 – A Major – 1838
Op. 40/2 – C Major – 1839
Op. 44 – f sharp minor – 1841
Op. 53 – A flat Major – 1843

Etude

Op.10 C-dur, a-moll, E-dur, cis-moll, c-moll (1828-1832)
Op.25 As-dur, f-moll, F-dur, a-moll, c-moll (1831-1836), f-moll, Des-dur (1839)

Vanx

Op.18 Es-dur (1831)
Op.34 N1 As-dur (1835)

Preludes

24 preludes op.28 (1836-1839)

Concerto cho piano và dàn nhạc

Op.21 f-moll (1829)
Op.11 e-moll (1830)

Theo SPNTTW.EDU.VN

Tags: , ,