Bàn về các thành tố cấu thành địa – chiến lược quốc gia

Địa – chiến lược là một cách tiếp cận đặc thù, một đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị chuyên nghiên cứu về sự vận động của không gian chiến lược. Môi trường địa lý, dân cư, truyền thống văn hóa, bối cảnh lịch sử là những yếu tố nền tảng cấu thành địa – chiến lược quốc gia. Tuy nhiên, tư duy, tầm nhìn chiến lược, khát vọng phát triển của chính phủ là yếu tố then chốt tạo nên không gian chiến lược cho an ninh và phát triển của một quốc gia.

Bàn về các thành tố cấu thành địa – chiến lược quốc gia

Khái quát về cách tiếp cận địa – chiến lược

Tư tưởng và hành động địa – chiến lược được hình thành và khá phổ biến từ thời cổ đại, cả ở phương Tây và phương Đông, nhưng thuật ngữ “địa – chiến lược” (geostrategy) xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1942 với nội hàm chính là “địa – chính trị chiến tranh” (war – geopolitics)(1). Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Một số quan điểm cho rằng, địa – chiến lược là một bộ phận thực hành của địa – chính trị(2), dùng để nghiên cứu giá trị chiến lược của các nhân tố địa lý trong chính sách đối ngoại. Điều này được thể hiện khá rõ trong cuốn từ điển Merriam – Webster (Mỹ) khi cho rằng: 1- Địa – chiến lược là một nhánh của địa – chính trị nhằm xử lý vấn đề chiến lược; 2- Địa chiến lược là sự kết hợp của các yếu tố địa – chính trị và chiến lược đặc trưng cho một khu vực địa lý cụ thể; 3- Chính phủ sử dụng chiến lược dựa trên yếu tố địa – chính trị(3). Trong khi đó, một số quan điểm khác cho rằng, “địa – chiến lược là sự kết hợp những tính toán chiến lược với những cân nhắc về địa – chính trị”(4; hoặc đề cập cụ thể hơn khi cho rằng, “địa – chiến lược là chỉ việc thực thi quyền lực trong một không gian nhất định trên bề mặt trái đất, là mưu đồ chính trị trong hệ thống toàn cầu”(5) và “địa – chiến lược đề cập đến một khu vực, không gian nhất định mà ở đó, một quốc gia đang tập trung nỗ lực xây dựng sức mạnh quân sự và các hoạt động đối ngoại của mình”(6).

Từ các khái niệm và cách hiểu trên, có thể thấy, về mặt lý thuyết, địa – chiến lược nghiên cứu vai trò, giá trị, tác động của địa điểm, không gian địa lý, bối cảnh, thời cơ quốc tế và mục tiêu quốc gia đối với việc tạo dựng cũng như phát triển không gian chiến lược (thường là của quốc gia) trong quan hệ quốc tế. Về mặt thực hành, địa – chiến lược là sự cân nhắc chiến lược, là kế sách hành động, nghệ thuật kiểm soát và khai thác không gian (thường là của một quốc gia) nhằm tạo ra một không gian chiến lược cho an ninh và phát triển của một quốc gia(7).

Như vậy, không gian và chiến lược kiểm soát quyền lực trong không gian là hai phạm trù cơ bản nhất tạo thành không gian chiến lược(8). Không gian này vừa có tính khách quan, được cấu thành bởi yếu tố tự nhiên (đất, biển, trời, vũ trụ), khá ổn định và ít biến đổi, vừa mang tính chủ quan, luôn biến động do con người tạo nên, như không gian mạng. Chính tư duy chiến lược giúp hình dung và bao quát về không gian chiến lược, đồng thời cũng quyết định cơ bản về độ lớn, nhỏ, nông, sâu của không gian chiến lược(9). Không gian chiến lược còn là thuộc tính thời gian bởi giá trị chiến lược của không gian phụ thuộc vào thời điểm. Cơ hội chiến lược không phải lúc nào cũng có, mà đến và đi ở những thời điểm nhất định. Chính vì biến số của tư duy chiến lược và thời gian đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách quốc gia phải luôn nắm bắt thời cuộc và đổi mới tư duy chiến lược để tiến hành các bước đi và huy động nguồn lực nhằm tạo ra một không gian chiến lược hợp lý để phát triển đất nước. Quốc gia nào làm chủ được nhiều không gian chiến lược sẽ có lợi thế về an ninh, phát triển và nâng cao vị thế.

Đối tượng chính của địa – chiến lược là không gian chiến lược (điều này khác với địa – chính trị là nghiên cứu không gian quyền lực) nên địa – chiến lược trở thành một cơ sở, nguồn lực và công cụ cho hoạch định và thực thi chiến lược/chính sách đối ngoại. Nhà địa – chính trị, địa – chiến lược người Mỹ Nicolas J. Spykman đã chỉ ra, “địa lý của một đất nước là vật liệu cho chính sách của một quốc gia đó”. Trong khi đó, ông tổ của luận thuyết về không gian sinh tồn Fredrich Ratzel cho rằng, “không gian” (raum) không chỉ là một nguồn lực của quyền lực chính trị, mà còn là một sức mạnh chính trị, nơi diễn ra sự tăng trưởng và bành trướng sức mạnh của một quốc gia và sức mạnh quốc gia phụ thuộc vào mối quan hệ của nhà nước với không gian(10). Từ cách tiếp cận về địa – chính trị, địa – chiến lược, nhiều học giả, chính khách trên thế giới đã đưa ra không ít học thuyết, sách lược nhằm định hướng và triển khai chính sách đối ngoại quốc gia. Đơn cử như, thuyết “Vành đai đất vùng ven” của học giả N. J. Spykman(11) đã định hướng cho “chiến lược ngăn chặn” của Mỹ chống Liên Xô (trước đây) từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; thuyết “Sự lựa chọn khu vực” trong “trò chơi quyền lực” của học giả Zbigniew Brzezinski(12) đã góp phần định hướng chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng khu vực, cũng như các nước khác nhau, nhất là với Trung Quốc và Nga từ sau Chiến tranh lạnh. Quan điểm về “sức mạnh biển” của nhà địa – chiến lược Mỹ Alfred Thayer Mahan(13) cũng được Trung Quốc áp dụng trong chiến lược “đại dương xanh”, “chiến lược chuỗi ngọc trai”, đặc biệt là triển khai đại dự án “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”(14)

Các thành tố cơ bản cấu thành địa – chiến lược

Không gian

Trước hết là không gian địa lý. Cùng với trục của thời gian, không gian, trước hết là không gian địa lý là một trong hai thành tố căn bản cấu thành thế giới nói chung, quốc gia – dân tộc nói riêng. Không gian địa lý được đo và xác định trên cả ba chiều dài, rộng và cao, trong đó vị trí địa lý, quy mô lãnh thổ, địa hình và tài nguyên dự trữ là nền tảng, vốn ban đầu cho hoạch định chính sách quốc gia. Trong không gian địa lý, vị trí địa lý có tầm quan trọng hàng đầu bởi nó có khả năng đem lại những ưu thế chiến lược trong phòng thủ và thương mại quốc tế của quốc gia. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “vị trí của một quốc gia trên bản đồ là điều đầu tiên quyết định ưu thế chiến lược của quốc gia đó, thậm chí còn hơn cả triết lý dùng nó để quản lý nó”(15). Đơn cử như, nước Mỹ được bao bọc bởi hai đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, có lợi thế về phòng thủ trên đất liền và có ưu thế thương mại bằng đường biển hơn bất kỳ quốc gia nào khác… Tuy nhiên, lợi thế của vị trí địa lý tăng hay giảm còn phụ thuộc vào chính sách phát triển quốc gia và bối cảnh quốc tế. Xin-ga-po trước đây là thuộc địa của Anh, nhưng sau này đã trở thành một thương cảng sầm uất, có tính chiến lược trong thương mại và phòng thủ quốc tế, khi chính sách thương mại tự do được áp dụng(16).

Quy mô lãnh thổ, địa hình và tài nguyên thiên nhiên cũng tác động lớn đến vị thế và chính sách của một quốc gia. Thông thường, một quốc gia với diện tích lớn sẽ có điều kiện trở thành cường quốc nhanh hơn, bởi nó mang lại nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và không gian rộng lớn để thực hiện mục tiêu quốc gia. Hầu hết các nước có lãnh thổ lớn, như Nga, Trung Quốc, Mỹ đều là các cường quốc hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước cũng có lãnh thổ rộng lớn, như Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ đến nay vẫn chưa đạt được vị thế trên. Trong khi đó, các nước, như Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức có diện tích không lớn, lại là những cường quốc của thế giới về sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hơn nữa, những nước có diện tích rộng lớn, đường biên giới quốc gia dài, có ưu thế trong phát triển kinh tế và giao thương quốc tế, nhưng cũng gặp không ít bất lợi, nhất là trong vấn đề phòng thủ. Có thể thấy, địa lý chỉ là vốn ban đầu, là nguồn sức mạnh tiềm năng của một quốc gia. Các quốc gia phải có nhận thức và hành động địa – chiến lược hợp lý về không gian địa lý để nguồn tiềm năng này trở thành sức mạnh hiện thực.

Tiếp đến là không gian mạng (cyberspace), còn được gọi là không gian “ảo” hay không gian thứ hai. Mặc dù không gian mạng không thuộc tính địa – vật lý, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với không gian thực, như đất đai, biển, trời và vũ trụ. Các hệ thống thông tin được phổ biến đến con người trên những khu vực không gian, vị trí lãnh thổ bằng công nghệ thông tin. Chính vì vậy, vị trí địa lý, quy mô lãnh thổ, địa hình và mật độ dân số trên lãnh thổ là những yếu tố quan trọng cấu thành nên không gian mạng, đồng thời là cơ sở để xây dựng và kiểm soát các cơ sở dữ liệu lớn (big database) hoặc các ngân hàng dữ liệu (banks database). Tuy nhiên, không gian mạng không phải là sở hữu riêng của quốc gia. Bất kỳ một cá nhân, tổ chức đều có thể tạo ra quyền lực, làm mất đi biên giới, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền điều hành quốc gia bởi sự phổ biến thông tin mạng do họ làm chủ. Chính vì vậy, “chủ quyền thông tin” hay “chủ quyền trong không gian số” đang được xem là vấn đề “nóng”, cấp bách đặt ra đối với an ninh, chủ quyền và phát triển của quốc gia(17). Cuộc khủng hoảng Nga – Ukraina hiện nay, trong đó có cuộc chiến về thông tin trong không gian mạng, đang trở thành một mặt trận, vũ khí lợi hại của cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế.

Quy mô dân số, cơ cấu dân cư – dân tộc, truyền thống lịch sử – văn hóa và ý thức hệ tư tưởng chính trị đối ngoại

Trong nhận thức và hành động địa – chiến lược, quy mô dân số, đặc điểm dân cư – dân tộc, truyền thống văn hóa đối ngoại có tác động và đóng vai trò hết sức quan trọng. Mối liên hệ và sự tương tác giữa những yếu tố này tạo cơ sở nền tảng cho việc đề ra quyết sách và dẫn dắt hành vi đối ngoại trong quan hệ quốc tế. Chuyên gia địa – chiến lược N. J. Spykman đã chỉ ra rằng, có rất nhiều nhân tố quy định chính sách của một quốc gia. Đó là những nhân tố thường xuyên và tạm thời, hiển thị hay bị che khuất, như nhân tố địa lý, mật độ dân cư, cơ cấu kinh tế của đất nước, thành phần sắc tộc của dân cư, hình thái chính quyền và những mặc cảm, định kiến của các bộ trưởng ngoại giao.

Về quy mô dân số. Quốc gia có quy mô dân số đông không chỉ có khả năng cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, tạo ra một thị trường tiêu thụ nội địa lớn để mở rộng hoạt động thương mại và đầu tư, bảo đảm phòng thủ đất nước, mà còn tạo ra một nguồn dữ liệu lớn cho phát triển hệ thống mạng thông tin viễn thông. Tuy nhiên, quan trọng hơn là chất lượng dân số của quốc gia đó. Nếu dân số quá đông, chất lượng dân số thấp, đất nước thiếu nguồn tài nguyên thiên nhiên và vật lực, khoa học – kỹ thuật kém phát triển thì sẽ mang lại không ít hạn chế, bất lợi. Để gia tăng chất lượng dân số, nhiều nước trên thế giới đã đẩy mạnh đầu tư giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với người dân.

Về cơ cấu dân cư – dân tộc, trước hết là văn hóa, sắc tộc. Quốc gia có sự tương đối thuần khiết về sắc tộc và tôn giáo sẽ có nhiều lợi thế trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển quốc gia. Trên bình diện quốc tế, các nước có cơ cấu dân cư – dân tộc và tôn giáo giống nhau sẽ có sự hợp tác với nhau thuận lợi hơn. Quốc gia có đông kiều dân sinh sống hay những người có cùng nguồn gốc tộc người sống ở nước ngoài sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại.

Tiếp đến là cơ cấu dân số vùng, miền và nghề nghiệp. Quốc gia có dân số tập trung đông ở các khu vực biên giới, nhất là vùng biên giới biển sẽ có nhiều cơ hội mở rộng giao lưu quốc tế. Chính vì vậy, các quốc gia khi tiến hành cải cách, mở cửa thường lựa chọn những vị trí thuận lợi về địa lý, nơi có chất lượng, số lượng dân cư và mối quan hệ giao lưu quốc tế. Chẳng hạn như, hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến được Trung Quốc lựa chọn làm đột phá điểm trong cải cách, mở cửa, nhất là thành lập các đặc khu kinh tế, chế xuất, một phần bởi chất lượng nguồn nhân lực ở hai địa phương này là khá cao, có mối quan hệ truyền thống và giao lưu kinh tế với nước ngoài(18).

Đối với tâm thức dân tộc về không gian lãnh thổ, ở những nước có truyền thống làm nông nghiệp thường mang tâm thức xem trọng đất đai và đề cao chủ nghĩa trọng nông, ít muốn mạo hiểm làm những ngành, nghề khác và rời khỏi quê hương. Chẳng hạn như, Trung Quốc trước đây thường xem đất đai là vốn quý giá nhất, đề cao vai trò của lục địa và biên giới lục địa hơn biển, coi các nước ngoài khơi như là những “tảng băng”, không thể so sánh với đất liền. Tâm thức này đã góp phần khiến Trung Quốc trong lịch sử chưa thể trở thành cường quốc biển, mặc dù Trung Quốc có đường bờ biển dài cùng nhiều cảng biển nước sâu và không bị đóng băng. Trong khi đó, Indonesia trước đây thường xem biển là đường bao xung quanh các đảo; biển không phải là biên giới lãnh thổ của đất nước, không phải là một thực thể chính trị, kinh tế – xã hội và văn hóa, cũng như phòng thủ riêng của một quốc gia(19). Chính vì vậy, mọi hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các đảo, các tộc người ở Indonesia diễn ra hết sức thuận lợi. Chính điều này cũng khiến người Indonesia trong lịch sử tương đối ôn hòa khi tiếp nhận các nền văn hóa, tôn giáo khác thâm nhập từ bên ngoài, từ đó tạo nên đặc tính “thống nhất trong đa dạng” trong văn hóa chiến lược, văn hóa an ninh(20) của Indonesia.

Truyền thống lịch sử – văn hóa và ý thức hệ tư tưởng chính trị đối ngoại cũng là một nhân tố hết sức quan trọng. Mỹ được xem là một ví dụ điển hình, khi giới tinh hoa của nước này phần nhiều bị thuyết phục bởi tư tưởng “vận mệnh hiển nhiên” hay “sứ mạng lịch sử”(21), coi mô hình quản trị và “sức mạnh mềm” của Mỹ là ưu việt và người dân Mỹ phải có trách nhiệm truyền bá giá trị đó ra toàn thế giới(22). Nhận thức này đã góp phần thôi thúc giới cầm quyền Mỹ can dự một cách có hệ thống vào các vấn đề quốc tế.

Bối cảnh, thời cơ quốc tế 

Bối cảnh, môi trường quốc tế, nhất là xu hướng chính trị và kinh tế quốc tế, cũng là một trong những nhân tố quan trọng cấu thành địa – chiến lược quốc gia. Môi trường quốc tế có thể tạo ra thời cơ hay thách thức chiến lược đối với mỗi quốc gia. Trong lịch sử, ngay từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16, việc mong muốn mở rộng nhanh chóng quyền lực ra toàn khu vực châu Âu và thế giới đã thôi thúc các nước Tây Âu, Mỹ đẩy mạnh tìm kiếm các nguồn lực mới từ bên ngoài; tăng cường phát triển lực lượng hải quân; thành lập các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước chuyên hoạt động ở nước ngoài, thậm chí sử dụng cả phương thức truyền bá tư tưởng, để xâm nhập và thôn tính thuộc địa, mở rộng không gian chiến lược ra bên ngoài. Trong khi đó, nhiều quốc gia phương Đông có những phản ứng khá phù hợp trước bối cảnh, thời cơ quốc tế. Ngay từ giữa thế kỷ 19, nhận thức rõ những cơ hội và thách thức mới từ sự xâm nhập của các nước phương Tây, Nhật Bản đã chủ động ký kết hàng loạt hiệp ước hòa bình và thương mại với Mỹ, Anh, Pháp; đồng thời, tiến hành các cải cách trong nước theo hướng tư bản. Kết quả là, Nhật Bản không những duy trì được nền độc lập, mà còn phát triển hết sức nhanh chóng và trở thành một đế chế có sức mạnh vượt trội ở khu vực Đông Á. Tương tự, Thái Lan không những không trở thành thuộc địa của phương Tây, mà còn tận dụng được nhiều kiến thức, kinh nghiệm từ phương Tây để tiến hành cải cách, mở cửa(23).

Trong thời kỳ hiện đại, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Singapore đã nhanh chóng trở thành những “con rồng châu Á” do biết khai thác một cách hợp lý sự đối đầu ý thức hệ chính trị – tư tưởng và quân sự giữa Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh để thu hút nguồn vốn đầu tư, viện trợ phát triển và hỗ trợ về an ninh từ phía các nước châu Âu, Mỹ. Trung Quốc đã tranh thủ môi trường hòa dịu, hợp tác trên quy mô toàn cầu sau Chiến tranh lạnh để tiến hành cải cách, mở cửa…

Như vậy, thời cơ chiến lược không phải tự nhiên có, mà là kết quả của quá trình vận động của thời thế và tư duy chiến lược của con người. Tuy nhiên, việc nắm bắt đúng thời gian, thời điểm để tạo ra thời cơ là một việc không đơn giản bởi sự bắt gặp giữa thời gian, thời điểm với tư duy và lợi ích chiến lược của một quốc gia rất khó định lượng. Chính vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần có tầm nhìn xa, trông rộng, cũng như nắm bắt kịp thời, đầy đủ các thông số, thông tin đa chiều đến từ cả trong nước và quốc tế để có thể đề xuất và thực thi các chính sách về không gian chiến lược một cách hợp lý.

Tư duy, tầm nhìn, mục tiêu, lợi ích chiến lược và khát vọng phát triển của quốc gia

Việc nắm bắt thời cơ chiến lược trong không gian phụ thuộc phần lớn vào tư duy chiến lược về không gian. Đây là quá trình quan sát, lý giải và nắm bắt các xu thế vận động chủ đạo của không gian để từ đó xây dựng, tiến hành các bước đi và huy động những nguồn lực phù hợp nhằm tạo ra một không gian chiến lược tối ưu đối với an ninh và phát triển. Quá trình này đòi hỏi phải nắm bắt được một số kỹ năng đặc thù, như khả năng nhận diện và tư duy về “bức tranh lớn”, bao gồm các đặc điểm và xu thế chủ đạo trong không gian “địa lý” đủ rộng, có chiều sâu và trong một khoảng thời gian dài; hội tụ đủ các kỹ năng kết hợp tư duy logic với tư duy sáng tạo, có tầm nhìn xa, mục tiêu rõ ràng, linh hoạt, ứng biến theo thời cuộc, trân trọng bài học lịch sử, tập hợp được các chuyên gia, cố vấn giỏi, kiên trì theo đuổi mục tiêu đã đề ra…(24).

Trong khi đó, tầm nhìn chiến lược về không gian giống như một bản thảo viễn cảnh, một tấm bản đồ chỉ đường thể hiện khát vọng và đích đến của một quốc gia trong tương lai, nhất là vị thế, vai trò trong hệ thống quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, tầm nhìn thường mang tính chủ quan nên các chính phủ và giới lãnh đạo cần có sự tinh tế trong kết hợp giữa tư duy, phán đoán chủ quan với những yếu tố khách quan bên ngoài để đưa ra những tầm nhìn chiến lược có thể dự báo được và đạt tính khả thi cao. Điều này được xem là một trong những yếu tố then chốt đưa đến sự thành công hay thất bại trong hoạch định và thực thi chiến lược quốc gia.

Hơn nữa, việc xác định mục tiêu, lợi ích chiến lược và khát vọng làm chủ không gian là một trong những yếu tố tiên quyết. Nếu một quốc gia không đưa ra được một mục tiêu có tầm chiến lược trong quan hệ quốc tế thì rất khó xác định tầm cỡ, tính hiệu quả của không gian chiến lược mà quốc gia đó đang theo đuổi và mở rộng. Trong mục tiêu chiến lược về không gian, có mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và mục tiêu đối với từng loại hình trong không gian. Chúng phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của từng giai đoạn lịch sử, vào thế và lực cũng như bối cảnh, môi trường quốc tế của một quốc gia, thậm chí cả sự vận động của không gian. Điều này được thể hiện khá rõ nét thông qua các chiến lược về biển, không gian vũ trụ, không gian mạng, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật vùng biên giới, chiến lược ngoại giao, phòng thủ… của mỗi quốc gia theo kế hoạch, tầm nhìn cụ thể.

Việc xác định lợi ích quốc gia là gì cũng là một điều kiện, nhân tố “đầu vào” trong xây dựng không gian chiến lược. Trong lợi ích quốc gia, có lợi ích tổng thể, lợi ích lâu dài, lợi ích ngắn hạn và từng lĩnh vực khác nhau. Cũng giống như mục tiêu, lợi ích quốc gia cần được xác định rõ và luôn điều chỉnh cho linh hoạt, phù hợp với điều kiện, yêu cầu của thực tiễn. Điều này được thể hiện khá rõ trong thực tiễn chính sách của các nước. Chẳng hạn như, nước Mỹ luôn theo đuổi lợi ích quốc gia trên ba khía cạnh: lợi ích chiến lược (chủ yếu là an ninh), lợi ích kinh tế và lợi ích giá trị về tự do, dân chủ và nhân quyền. Ba lợi ích này luôn hiện hữu, nhưng trong từng trường hợp, không phải lúc nào cả ba lợi ích cũng có vai trò quan trọng như nhau, bởi chúng phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, thời điểm, đối tượng, đối tác mà Mỹ có quan hệ và áp dụng.

Trong khi đó, khát vọng quyền lực trong không gian là một thành tố, động lực hàng đầu trong hành động địa – chiến lược. Con người, nhất là nhà nước thường sử dụng lợi thế quốc gia, trong đó có lợi thế về địa lý, sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, dân số, truyền thông, tôn giáo để đạt mục tiêu quốc gia, trong đó có mục tiêu kiểm soát không gian quyền lực trong quan hệ quốc tế.

Có thể nói, trong địa – chiến lược, không gian và chiến lược kiểm soát quyền lực trong không gian là hai phạm trù cơ bản nhất, là đối tượng nghiên cứu chính của địa – chiến lược. Hoàn cảnh và không gian địa lý, nhất là vị trí địa lý, quy mô, hình thể lãnh thổ và dân cư sống trên lãnh thổ đó, nhất là quy mô dân số và đặc điểm, tâm lý, truyền thống văn hóa dân tộc là yếu tố tiên quyết, ban đầu đối với mọi tính toán chiến lược của mỗi quốc gia. Đây là những thành tố nền tảng cấu thành địa – chiến lược quốc gia. Tuy nhiên, để làm gia tăng tính chiến lược của nhân tố địa lý và hình thành một không gian chiến lược có tính linh hoạt, hiệu quả, nhất là trong quan hệ đối ngoại, đòi hỏi các nhà lãnh đạo có tư duy, tầm nhìn chiến lược để nắm bắt, tận dụng thời cơ chiến lược, từ đó đưa ra những quyết sách hợp lý. Chính vì vậy, tư duy, tầm nhìn chiến lược và khát vọng phát triển của chính phủ, nhất là giới tinh hoa trong hoạch định và thực thi chính sách, là yếu tố then chốt tạo nên không gian chiến lược đối với an ninh và phát triển của một quốc gia. Đây cũng là thành tố cơ bản, có nhiều biến động nhất trong các thành tố cấu thành địa – chiến lược quốc gia.

——————————–

Chú thích:

(1) Thuật ngữ “địa – chiến lược” do nhà nghiên cứu Mỹ Frederick Lewis Schuman đưa ra vào năm 1942 nhằm giải thích một thuật ngữ bằng tiếng Đức là “Wehrgeopolitik” do nhà địa lý học và chính trị gia người Đức – Tướng Karl Haushofer đưa ra vào trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên trước đó, nội hàm của khái niệm này đã được diễn giải trong học thuyết về quân sự của học giả người Nga Dmitry Alekseevich Milyutin (1816 – 1912). Ông cho rằng, “địa – chiến lược thực chất là một khoa học chính trị, nghiên cứu toàn bộ thành phần của quốc gia theo quan điểm quân sự, từ quan điểm của chiến tranh”. Xem: M.V. Rjeltov: Địa chính trị: Lịch sử và Lý thuyết, VU (tiếng Nga), Mát-xcơ-va, 2009, tr. 308, 314
(2) Địa – chính trị là một cách tiếp cận, một quan niệm khá đặc thù của khoa học chính trị nghiên cứu về sự vận động của không gian quyền lực trong quan hệ quốc tế, trong đó không gian, trước hết là không gian địa – vật lý là một duyên cớ, cơ sở nguồn lực cho động cơ, tham vọng chính trị. Xem: Trần Khánh: “Bàn về khái niệm địa – chính trị”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, 2018, tr. 51; Marintrenco A.V.: Địa chính trị, Giáo trình cao học, INFRA-M (tiếng Nga), Mát-xcơ-va, 2010, tr. 9
(3) Merriam – Webster: “Definition of geostrategy” (Tạm dịch: Định nghĩa về địa – chiến lược), https://www.merriam-webster.com/dictionary/geostrategy
(4) Zbigniew Brzezinski: Game Plan: A Geostrategic Framework for the Conduct of US – Soviet Contest (Tạm dịch: Kế hoạch trò chơi: Khung địa – chiến lược cho cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Liên Xô), The Atlantic Monthly Press, Boston, p. xiv. ISBN 0-87113-084-X, 1986
(5) Xem: James Rogers – Luis Simon: “Think Again: European Geostrategy” (Tạm dịch: Suy nghĩ lại: Địa – chiến lược châu Âu), ngày 14-3-2010, https://fr.scribd.com/document/123470268/Think-Again-European-Strategy
(6) Jakub J. Grygiel: Great Powers and Geopolitical Change (Tạm dịch: Các cường quốc và thay đổi địa – chính trị), The Johns Hopkins University Press, Baltimore, 2006, tr. 22 – 23
(7) Trần Khánh: “Bàn về phạm trù và định nghĩa về địa chiến lược”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4 (119), tr. 219
(8) Không gian chiến lược có thể hiểu là môi trường xung quanh, trong đó con người, xã hội được cung cấp hay được bảo đảm an ninh, có cơ hội để phát triển và ngày càng làm chủ vận mệnh của mình, có vị thế lớn hơn trong cộng đồng quốc tế thông qua các chiến lược, sách lược của mình (thường là của quốc gia) về phát triển không gian đối nội và đối ngoại
(9) Xem: Lê Đình Tĩnh: “Bàn về tư duy chiến lược: Lý thuyết, thực tiễn và trường hợp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4 (111), tháng 12-2017, tr. 8
(10) Xem: Trần Khánh: “Bàn về các luận thuyết liên quan đến địa chiến lược”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, 2019, tr. 4
(11) Xem: Nicholas J. Spykman: The Geography of the Peace (Tạm dịch: Địa lý của hòa bình), Harcourt, Brace and World, New York, 1944
(12) Zbigniew Brzezincki: The Grand Chessboard – American Primary and its geostrategic imperatives (Tạm dịch: Bàn cờ lớn – Sơ lược về Hoa Kỳ và các mệnh lệnh địa – chiến lược), Basic Books, 1997
(13) Alfred Thayer Mahan: Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660 – 1783 (Phạm Nguyên Trường dịch), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2012
(14) Xem: Trần Khánh: “Bàn về hành động địa – chiến lược của Trung Quốc từ khi thực hiện cải cách mở cửa”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, 2020
(15) Xem: Trần Khánh: “Bàn về hành động địa chiến lược của Trung Quốc từ khi thực hiện cải cách mở cửa”, Tlđd, tr. 15
(16) Xem thêm: Trần Khánh – Trịnh Hải Tuyến: “Bàn về hành động địa chiến lược của Cộng hòa Singapore”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 12, 2019, tr. 3 – 13
(17) Hiện nay, trong số hơn 200 quốc gia trên thế giới sử dụng internet khá phổ biến thì có tới hơn 60 nước sử dụng các phương tiện khác nhau để bảo vệ an ninh mạng hoặc ngăn chặn gián điệp mạng. Đã có trên 30 quốc gia thành lập các đơn vị chuyên trách an ninh mạng. Ví dụ như, Mỹ đã thành lập Bộ chỉ huy mạng (cybercom) vào năm 2009; thông qua Luật An ninh mạng năm 2015; thành lập Bộ Tác chiến không gian mạng năm 2018 và chính thức ra mắt Bộ Tư lệnh không gian vũ trụ (SpaceCom) với chức năng tác chiến mới, kiểm soát mọi hoạt động của các quân chủng quân đội Mỹ trong không gian vũ trụ vào ngày 29-8-2019. Cuối năm 2016, Trung Quốc đã ban hành Chiến lược An ninh không gian mạng. Ngày 12-6-2018, Việt Nam cũng thông qua Luật An ninh mạng. Năm 2010, Pháp đã đưa ra Chiến lược về không gian, trong đó có nhấn mạnh đến an ninh mạng. Năm 2019, Pháp đã thành lập Bộ Tư lệnh không gian, với mục tiêu bảo vệ không gian an ninh và phát triển của Pháp
(18) Xem: Trần Khánh: Cộng đồng người Hoa, Hoa kiều ở châu Á, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2018, tr. 137 – 178
(19) Xem: Chin Kin Wah: Reflections on the Shaping on Strategic Culture in Southeast Asia from the book Southeast Asian Perspectives on Security (Tạm dịch: Những phản ánh về định hình chiến lược văn hóa ở Đông Nam Á từ cuốn sách Góc nhìn Đông Nam Á về an ninh) (ed. by Derek da Cunha), ISEAS, Singapore, 2000, tr. 4 – 5; Jurgen Haacke: ASEAN’S Diplomatic and Security Culture: Origins, development and prospects (Tạm dịch: Văn hóa ngoại giao và an ninh của ASEAN: Nguồn gốc, sự phát triển và triển vọng), Routledge Curzon, Taylor & Frrancis Group, London and New York, 2003, tr. 2 – 3
(20) “Văn hóa chiến lược” chỉ mối quan hệ giữa văn hóa và chiến lược trong hành động quốc phòng – an ninh, chỉ thế giới quan, hành vi, thói quen của giới chính trị – quân sự trong việc lựa chọn chiến lược phát triển và an ninh quốc gia ở cấp cao nhất; “văn hóa an ninh” hàm chứa nội dung rộng lớn hơn, không chỉ hành vi, thói quen suy nghĩ, hành động và lòng tin của giới quân sự, chính trị cầm quyền, mà còn phản ánh văn hóa tổ chức quân sự, những phương pháp để đạt các mục tiêu đã đề ra. Xem: Michael J. Mazarr: “Culture and International Relations: A Review Essay” (Tạm dịch: Văn hóa và quan hệ quốc tế: Bài luận đánh giá), The Washington Quarterly, Vol. 19, No. 2, 1996, tr. 177 – 197
(21) Tư tưởng “sứ mệnh bành trướng” được giới chính trị Mỹ phát triển thành học thuyết, mà tiêu biểu là học thuyết của Tổng thống Mỹ Giêm Môn-râu (James Monroe, 1750 – 1831) đưa ra vào tháng 12-1823 (gọi tắt là Học thuyết Monroe). Theo học thuyết này, Mỹ phải có trách nhiệm bảo vệ an ninh của cả châu Mỹ (bao gồm cả khu vực Mỹ La-tinh) khỏi sự “nhòm ngó” từ bên ngoài
(22) Xem: Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên): Hoa Kỳ văn hóa và chính sách đối ngoại, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008; Lý Thắng Khải: Nội tình 200 năm Nhà Trắng, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 117 – 118; Trần Khánh – Trần Lê Minh Trang: “Truyền thống văn hóa và tư tưởng chính trị đối ngoại của Hoa Kỳ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, 2013, tr. 47 – 55
(23) Xem: Vũ Dương Ninh (chủ biên): Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 302
(24) Xem: Lê Đình Tĩnh: “Bàn về tư duy chiến lược: Lý thuyết, thực tiễn và trường hợp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4 (111), tháng 12-2017, tr. 12 – 13

Theo TẠP CHÍ CỘNG SẢN

Tags: