Trào lưu Môi trường cực đoan – mối nguy hiểm cho phát triển bền vững

Phát triển bền vững là chiến lược đúng đắn của cả nhân loại trong đó có Việt Nam. Triết lí và cũng là mục tiêu của phát triển bền vững là hài hòa các phúc lợi kinh tế – xã hội và môi trường. Tuy nhiên một trào lưu mới gần đây, với khẩu hiệu “Tất cả vì môi trường” đã cố tình tách phúc lợi môi trường ra khỏi chiến lược chung của phát triển bền vững. Trào lưu này là “Trào lưu môi trường cực đoan”, là một đe dọa cho phát triển bền vững.

Trào lưu Môi trường cực đoan – mối nguy hiểm cho phát triển bền vững

1. Điểm qua lịch sử trào lưu Môi trường cực đoan

Thuộc về nhóm những người hăng hái bảo vệ môi trường, nhưng khác với bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững, những người theo trào lưu Môi trường cực đoan nhằm mục tiêu “tất cả vì môi trường”, “môi trường trên hết”, “bảo tồn trên hết”. Họ quên mất rằng con người và xã hội cũng là một bộ phận của các hệ thống sinh thái. Không thể hy sinh lợi ích của con người – một bộ phận của hệ thống – cho lợi ích của các bộ phận khác, cũng như ngược lại.

1.1. Năm 1975, Edward Abbaf – một nhà văn Mỹ – xuất bản cuốn tiểu thuyết có tên là “Con khỉ Wrench Gang”, trong đó mô tả hành động của 4 “nhà môi trường” cho nổ phá các cây cầu và các công trình xây dựng trên sông Colorado vì cho rằng những công trình này đã phá hoại vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông. Cũng không ai ngờ rằng cuốn sách đó đã mở đường cho một số người – mà đa phần là những người giàu có – thiết lập cơ sở học thuyết của trào lưu Môi trường cực đoan. Dưới ảnh hưởng của trào lưu này, chính quyền Colorado đã thành công trong việc thuyết phục Chính phủ Liên Bang (Mỹ) huỷ bỏ dự án xây dựng đập Two Forks có chức năng cung cấp nước cho các cộng đồng nghèo gồm mấy chục ngàn người mới nhập cư vào bang Colorado khiến cho họ lâm vào tình trạng thiếu nước nghiêm trọng phải di cư đi nơi khác. Người ta không quan tâm đến việc họ phải di cư đi đâu, nhưng dù có đi đâu chăng nữa thì việc cung ứng các nhu cầu về nước và tài nguyên cho họ cũng chưa chắc sẽ ít gây tổn hại môi trường hơn ở Colorado.

Năm 1978, toà án tối cao Mỹ dựa vào luật Bảo vệ Môi trường đã ra lệnh ngừng thi công đập thuỷ lợi Tellico giá 78 triệu USD với lí do là dự án sẽ gây nguy hiểm cho một loài ốc đang cư trú ở một vùng đầm lầy mà nếu xây đập thì sẽ biến thành hồ.

1.2. Điển hình theo trào lưu môi trường cực đoan có lẽ phải kể đến Theodore Kaczinski, nguyên Phó Giáo sư Toán học của trường Đại học Berkeley, California, Hoa Kỳ. Quá thất vọng với nền văn minh hiện đại, Kaczinski mong muốn đưa con người trở lại với thiên nhiên bằng cách khủng bố và giết hại các nhà khoa học, công nghệ và các doanh gia hàng đầu nước Mỹ bằng bom thư. Kaczinski đã hạ sát Moccer T. – phó chủ tịch công ty Quảng cáo cho tập đoàn Dầu lửa Ecson, giết chết Murey G. – một ông trùm ngành khai thác rừng, Campbell H. – chủ tập đoàn máy tính và là kỹ sư lập trình nổi tiếng. Một số nhân vật nổi tiếng khác cũng bị Kaczinski gây thương tích như chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực sóng siêu cao tần Angelaus D., nhà hoá học Crist B., chuyên gia hàng đầu về gen Epstein C., nhà nghiên cứu trí tuệ nhân tạo Gelenter D. chủ tịch hãng Hàng không United Airlines Wood P. và nhiều người khác.

Cũng Kaczinski là người đã công bố bản Tuyên ngôn đại diện cho tư tưởng cực đoan về môi trường hiện vẫn còn được lưu giữ ở trường Đại học Michigan. Mặc dù nếu loại bỏ những phần cực đoan, bản Tuyên ngôn của Kaczinski quả là một cáo trạng rất hay đối với trào lưu phát triển cực đoan, đối với xã hội tiêu thụ mà trong đó “con người làm việc như một cái máy” [1].Nổi tiếng nhất – hay bỉ ổi nhất – vẫn là Kaczynski, còn gọi là Unabomber, kẻ đã gửi 16 quả bom đến các mục tiêu bao gồm các trường đại học và công ty hàng không, giết chết 3 người, vào giữa các năm 1978 và 1995. Tại một cuộc phỏng vấn trong nhà tù năm 1999, Kaczynski nói: “Tôi phát điên lên khi nhìn thấy cưa máy xẻ thân cây. Nếu như không có ai làm đường băng qua khu rừng và chặt phá cây cối thì có lẽ tôi vẫn còn sống ở đó” [2].

1.3. Thị trấn Langnau ở Thụy Sĩ nổi tiếng là nơi xảy ra một trong những âm mưu khủng bố sinh thái khủng khiếp nhất châu Âu. Vào đêm 15/4/2010, cảnh sát địa phương bắt giữ một chiếc xe hơi chở một lượng lớn chất nổ và 3 người được cho là thành viên của nhóm khủng bố sinh thái Silvestre II với âm mưu đánh bom cơ sở công nghệ nano của IBM trị giá gần 100 triệu USD đang xây dựng. Cơ sở của IBM là trung tâm nghiên cứu sinh học và công nghệ nano hiện đại nhất châu Âu. Theo báo cáo của cảnh sát, nhóm khủng bố sinh thái Silvestre II tuyên bố chống đối mọi dạng công nghệ nano. Silvestre II lập luận rằng họ – những nhà sinh thái cực đoan chính là “những nhà cách mạng” [2].

1.4. Từ “khủng bố sinh thái” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1990 để mô tả những nhà hoạt động môi trường cực đoan chống việc đốn hạ cây gỗ bằng cách đóng đinh vào thân cây. Đầu tiên là nhóm cực đoan Earth First ( Trái Đất trên hết) – họ đóng những cây đinh sắt vào thân cây để ngăn việc đốn hạ. Thượng nghị sĩ Cộng hòa Denny Smith mô tả các nhà hoạt động môi trường Earth First là những tên khủng bố sinh thái khi ông vận động hành lang với chính quyền Mỹ để truy tố họ ra trước pháp luật [3,4].

Năm 1992, một nhóm các nhà hoạt động môi trường của Earth First quyết định thành lập Mặt trận Giải phóng Trái đất (ELF). Sau đó, ELF biến tướng thành một tổ chức quốc tế bao gồm nhiều thành phần, sử dụng những thủ đoạn khủng bố như phóng hỏa hay đe dọa. Cùng với tổ chức Mặt trận Giải phóng Động vật (ALF) có nguồn gốc từ nước Anh, ELF bị James F. Jarboe, lúc đó là đặc vụ chống khủng bố của FBI, gọi là “thành phần cực đoan hăng hái nhất ở Mỹ” năm 2002. FBI đã thống kê được 2.000 tội danh mà nhóm cực đoan phạm phải từ năm 1979 và cảnh báo chúng đang ngày càng bạo lực hơn, kể cả sự đe dọa đến tính mạng con người chứ không chỉ tài sản. Các nhóm khủng bố sinh thái hướng các hành động bạo lực của chúng đến các khu chung cư, cơ sở hạ tầng điện hạt nhân, các phòng thí nghiệm khoa học và các trung tâm phát triển du lịch. Năm 2008, ELF tuyên bố chịu trách nhiệm vụ phóng hỏa một khu chung cư ở Seattle và vụ tấn công bằng bom lửa khu resort du lịch Colorado năm 1998 gây thiệt hại ước tính 12 triệu USD [2].

Các tổ chức “khủng bố sinh thái” ở Mỹ bao gồm: ALF, ELF, Tổ chức Bảo tồn Động vật biển (SSCS), Earth First, Liên minh Bảo vệ những Khu vực cấm săn bắn (CSP) và Hardesty Avengers (Nhóm báo thù Hardesty). Năm 2002, Quốc hội Mỹ và FBI buộc tội những hành động của SSCS là khủng bố sinh thái [2].

ALF tiến hành chiến dịch kéo dài 6 năm chống lại trang trại Darley Oaks ở Newchurch, Stafffordshire (Anh), nơi gây giống chuột lang dành cho nghiên cứu khoa học. Chất nổ được gửi đến một số người làm việc trong trang trại và năm 2004, các nhà hoạt động cực đoan đã quật xác của Gladys Hammond, người thân của gia đình quản lý trang trại và đem đi. Xác chỉ được tìm lại vào 2 năm sau trong một khu rừng.

1.5. Một nhóm người tự xưng là “Những người chăn nuôi” ở Hoa Kỳ tuyên bố đã thả xuống vùng Los Angeles và quận Cam loại ruồi đục quả và dọa sẽ mở rộng cuộc tấn công của mình vào thung lũng San Joakin, một trung tâm nông nghiệp quan trọng của California. Họ tuyên bố rằng nếu như chính quyền bang không ngừng hẳn việc sử dụng mọi loại thuốc trừ sâu thì họ sẽ làm loài ruồi này tràn ngập thành một thảm hoạ, dẫn đến mọi sản phẩm của California phải kiểm dịch. Chính quyền bang buộc phải huy động vào đó một nguồn nhân lực khổng lồ để xử lý tình hình và tổn thất về thương mại lên tới 13,4 tỷ đôla. Người ta biết rằng đứng đằng sau nhóm người này là những tên khủng bố sinh thái (ecoterrorist), nhưng nỗi kinh hoàng mà họ gieo rắc cho thấy nhóm “Nhưng người chăn nuôi” đang đề cập đến một thứ vũ khí nguy hiểm [3].

2. Nguyên nhân xuất hiện trào lưu Môi trường cực đoan

Môi trường cực đoan trước hết là mặt đối lập của Phát triển cực đoan đã nói ở trên. Phát triển cực đoan có xuất sứ từ lịch sử xa xôi của loài người và gia tăng quy mô cùng với cách mạng công nghệ. Trào lưu này ban đầu là sự cố gắng của nhân loại nhằm xoá đói nghèo và thoát khỏi sự phụ thuộc vào thiên nhiên. Ban đầu là một ý thức tích cực khi mà sức ép dân số chưa trở thành vấn đề bức xúc, khi mà nguồn tài nguyên và khả năng tự làm sạch của trái đất còn dồi dào, và khi mà những phát minh công nghệ còn chưa đạt đến mức tạo ra những sản phẩm độc hại (ví dụ dưa chuột ghép gen bọ cạp, giống lúa giàu vitamin A gây đau bụng kinh niên và sưng tấy chỏm thóp xương sọ trẻ em…).

Vào cuối thế kỷ 20, suy thoái và ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng, kể cả ở quy mô địa phương và toàn cầu, cùng với lối sống tiêu thụ và vô trách nhiệm đối với môi trường, đã làm bùng phát một trào lưu đối lập với trào lưu Phát triển cực đoan, đó chính là trào lưu Môi trường cực đoan.

Lý do thứ hai là ở cơ sở triết học của vấn đề. Phải nói rằng cả hai hướng cực đoan trong ý thức xã hội – Phát triển cực đoan và Môi trường cực đoan – đều xuất phát từ phương Tây, nơi mà nền khoa học thực nghiệm chỉ công nhận những gì đo đếm được, nơi mà khoa học nhằm vào việc phân tích đối tượng và sự vật thành từng mảng nhỏ để nhận thức, nơi mà lối sống tiêu thụ đánh giá cao con người qua cái mà họ sở hữu, nơi mà kiểm soát và điều khiển các nhiệm vụ qua các bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn rạch ròi… Chỉ khi lồng ghép được những tinh hoa của triết học phương Đông với những thành tựu của Khoa học thực nghiệm phương Tây, con người mới tiến tới một ý thức hệ mới: ý thức hệ dựa trên hệ thống và phát triển bền vững. Phát triển bền vững coi môi trường là một hệ thống mềm và sự bền vững của cả hệ thống mới là quan trọng. Các trào lưu cực đoan chỉ đề cao bộ phân riêng lẻ của hệ thống môi trường. Như đã chỉ rõ ở trên, đó chính là sản phẩm của tư duy phân tích và thực nghiệm.

Lý do thứ ba cũng hay gặp, đó là một số nhóm Môi trường cực đoan sử dụng khẩu hiệu “Tất cả vì môi trường” thực ra để vụ lợi về kinh tế hoặc danh tiếng, vì môi trường là vấn đề nhạy cảm đang được cả nhân loại quan tâm và thường có nhiều dự án đầu tư lớn.

3. Nạn nhân của trào lưu môi trường cực đoan

Những dẫn chứng ở trên cho thấy những nhà khoa học hàng đầu, những nhà kinh doanh giàu có, những dự án phát triển… có thể là mục tiêu khủng bố của một vài “nhà môi trường” cực đoan. Tuy nhiên nạn nhân chủ yếu của Môi trường cực đoan chính là những cộng đồng nghèo và yếu thế. Các nước nghèo ở vùng nhiệt đới, do còn chưa phát triển, nên vẫn còn sót lại nhiều khu vực tự nhiên rộng rãi có giá trị đa dạng sinh học và cảnh quan cao. Chỉ cần ở khu vực đó có một vài loài động vật đặc hữu trên một diện tích tự nhiên đủ rộng là đủ lý do xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên tầm cỡ quốc gia, tạo cơ sở xin tài trợ quốc tế. Đã không ít lần báo chí nói đến những khó khăn của các cộng đồng dân cư nghèo khó, vì lí do bảo tồn thiên nhiên, đã phải di chuyển ra khỏi mảnh đất mà họ đã cư trú nhiều đời nay mà không có một sự trợ giúp thoả đáng.

Chúng ta hy vọng các chính sách xã hội phù hợp sẽ góp phần cải thiện cuộc sống của những cộng đồng nghèo vùng bảo tồn thiên nhiên, nhưng còn quốc gia và địa phương sẽ phải phát triển ra sao nếu quá nhiều khu vực thiên nhiên cần phải “giữ nguyên hiện trạng” được thành lập trên cơ sở những tính toán thiếu tầm chiến lược dài hạn: không mở đường được, không xây đập làm hồ được, không xây dựng đô thị được, không khai thác khoáng sản được vì chỗ này một loài cá đặc hữu ngự trị, chỗ khác mấy loài kỳ nhông phởn phơ, còn chỗ nọ thì phải giữ nguyên vì thấy vết chân còn tươi của một loài dê rừng quý hiếm !…

Không ai là không thấy rõ những lợi ích của bảo tồn thiên nhiên, thế nhưng vẫn còn đó hàng chục triệu “triệu phú áo rách” sống trong hay lân cận các vùng cảnh quan có giá ấy mỗi năm có thể đứt bữa nhiều tháng, tuổi thọ trung bình chưa nổi 50, còn một tỷ lệ khá cao phụ nữ trên 15 tuổi mù chữ, trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, có trận dịch sốt rét giết chết 90 trên tổng số 170 nhân khẩu của một bản vì không đủ thuốc men và quá xa trạm y tế, thu nhập tính ra tiền một người/một năm chưa nổi 10.000 đ (như một số vùng ở Trường Sơn, Tây Nguyên, số liệu năm 2005). Những cộng đồng này – như cách nói của tạp chí Ambio, 1994 – rất có nguy cơ trở thành “tù nhân sinh thái” mà cai ngục lại chính là các giá trị sinh thái phi thị trường nơi họ đang sống được vũ trang bằng những lí thuyết bảo vệ môi trường cực đoan.

Ở đây cũng cần nói thêm rằng phần đông những người ủng hộ cho trường phái môi trường cực đoan không phải là những người nghèo đang phải hàng ngày vật lộn mưu sinh, khát khao miếng cơm manh áo và học hành. Trong khi gọi các đô thị là những “ung nhọt của trái đất”, là “các tế bào ung thư trong cơ thể tự nhiên” thì những “nhà” môi trường cực đoan và những người ủng hộ họ lại là những dân cư đô thị chính cống với cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Điều này cũng dễ hiểu vì chỉ những người đã no đủ mới nghĩ nhiều đến sạch, đã ấm mới lo lắng đến đẹp. Xu thế phát triển thế giới đầu thế kỷ 21 sẽ làm tăng cả nhóm người giàu có lẫn nhóm người nghèo khổ. Đó chính là mảnh đất làm cho cả nhóm Môi trường cực đoan lẫn nhóm nạn nhân của trào lưu này sẽ còn bùng nổ trong tương lai.

4. Hài hòa các phúc lợi môi trường vào Phát triển bền vững là chiến lược phù hợp để kiểm soát trào lưu Môi trường cực đoan.

Phát triển bền vững đòi hỏi phải cân đối hài hòa các phúc lợi kinh tế – xã hội và môi trường. Tất nhiên có những nơi bảo tồn là chính, có những vùng phát triển là chính. Phát triển không được gây hại cho môi trường và bảo tồn, đồng thời không để cho cái gọi là “bảo tồn” trở nên cái xiềng cản trở sự phát triển. Nếu coi phát triển là sự đánh đổi đối với bảo tồn thiên nhiên thì cấn cân nhắc giữa cái được và cái mất của phát triển. Nếu mất nhiều hơn được thì phải rà soát, điều chỉnh lại các dự án phát triển, thậm chí hủy bỏ chúng. Nhưng nếu phát triển là cần thiết và có lợi cho cộng đồng, xã hội, an ninh quốc phòng, thì thiệt hại cho bảo tồn là cái giá cần phải trả.

Nâng cấp chất lượng các báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM), Đánh giá Môi trường Chiến lược (ĐMC) , cũng như thẩm định nghiêm ngặt các báo cáo này, và trong trường hợp cần thiết là Phản biện Xã hội, là những bước đi cần thiết để giải các bài toán đánh đổi.Bảo tồn thiên nhiên hay phát triển là 2 mặt của một vấn đề. Chúng không đối lập mà hỗ trợ nhau, chúng tồn tại 2 trong 1 trong cùng một hệ thống, cái mà ta vẫn gọi là hệ thống Sinh thái nhân văn. Tách rời hai lĩnh vực này sẽ dẫn tới những khuynh hướng, những trào lưu cực đoan, xét cho cùng chỉ gây hại cho con người và xã hội.

Nhằm mục tiêu hài hòa các phúc lợi kinh tế – xã hội và môi trường cho phát triển bền vững, việc hoàn thiện các quy định pháp luật là bước đi quan trọng. Tuy nhiên quy định pháp luật của nước ta về lĩnh vực này cũng đang gây khó cho cả lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên lẫn lĩnh vực phát triển

Nghị quyết 49/NQQH/2010 ngày 19/6/2010 của Quốc Hội về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, quy định trong điều 3 khoản 2 mục b: Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 hécta (ha) trở lên đã là công trình quan trọng Quốc gia phải được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Nghị quyết này mở đường cho việc giải bài toán đánh đổi một cách rất thận trọng, rằng các khu bảo tồn thiên nhiên không phải là lãnh địa bất khả xâm phạm.

Như vậy các dự án loại này phải được Quốc hội phê duyệt chủ trưng đầu tư thì mới được lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Nghị quyết này được ban hành chủ yếu cũng nhằm bảo vệ môi trường. Nhưng nếu không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường thì Quốc hội dựa trên cơ sở nào để quyết định đầu tư? Chắc không phải cơ sở khoa học đầy đủ về môi trường.Trước đây nhằm quyết định cho phép đầu tư hay không chủ dự án phải xây dựng và đệ trình báo cáo Đánh giá tác động môi trường sơ bộ cho giai đoạn tiền khả thi, nhưng loại báo cáo này đã bị hủy bỏ từ lâu.

Sau đó gần 1 năm, Nghị định 29/2011/NĐ – CP ban hành ngày 18/4/2011 quy định về Đánh giá Môi trường chiến lược, Đánh giá Tác động môi trường và Cam kết bảo vệ môi trường chỉ rõ trong nhóm “Dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích rừng, diện tích đất lúa 2 vụ” thì những dự án sau đây mới phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường: chuyển đổidiện tích từ 5 ha trở lên đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ chắn sóng, rừng đặc dụng; chuyển đổi diện tích từ 10 ha trở lên đối với rừng tự nhiên (Mục 45 phụ lục II), san lấp biển từ 5 ha trở lên (mục 43).

Như vậy nếu chủ dự án chia nhỏ dự án đến mức chuyển đổi diện tích dưới các hạn ngạch trên thì không cần lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Vài chục dự án cỡ nhỏ đã có thể chuyển đổi cả trăm ha khu bảo tồn thiên nhiên (ngành Lâm nghiệp vẫn gọi chẳng giống ai là rừng đặc dụng) cả trên cạn lẫn dưới biển, không cần được Quốc hội phê duyệt và cũng khỏi cần lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Hai văn bản trên cho thấy Quốc hội xiết chặt các dự án lớn, Chính phủ lại thả lỏng các dự án nhỏ có liên quan đến việc sử dụng đất trong các khu bảo tồn thiên nhiên cả trên cạn lẫn dưới biển, còn nhà đầu tư dự án lớn thì lúng túng không biết phải làm thế nào.

Thảo luận

Việc tách rời các phúc lợi kinh tế – xã hội và môi trường là nguyên nhân chính tạo ra các trào lưu cực đoan, trong đó có trào lưu Môi trường cực đoan. Những trào lưu cực đoan chỉ nhằm vào bảo vệ các lợi ích đơn lẻ mà mình hướng tới, coi rẻ các lợi ích khác, sẽ phá vỡ hệ thống, cản trở xã hội phát triển theo hướng bền vững. Không chỉ như vậy, tình trạng hiện nay trên thế giới cho thấy các trào lưu cực đoan dễ chuyển thành khủng bố, với trào lưu Môi trường cực đoan thì đó là khủng bố sinh thái.

Vì vậy, những tuyên bố dễ dàng của các cá nhân hay nhóm xã hội dù là phản đối hay ủng hộ các hoạt động phát triển hay bảo tồn thiên nhiên, nếu thiếu cân nhắc trên cơ sở phát triển bền vững, thiếu cơ sở khoa học về phát triển bền vững, thì rất có thể vô tình hỗ trợ cho các trào lưu cực đoan hình thành và phát triển.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy khi đã hình thành và phát triển, các phong trào cực đoan trong đó có trào lưu Môi trường cực đoan rất khó hội nhập lại với một xã hội cân bằng và hài hòa, có nghĩa là rất khó kiểm soát.

———————————

Chú thích:

1. Nguyễn Đình Hòe. Trào lưu môi trường cực đoan. Trong sách “Môi trường và Phát Triển bền vững”. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2006, tái vản 2007,2008
2. Bảo vệ sinh thái cực đoan chẳng khác khủng bố ! 30/7/2011
http://www.baomoi.com/Bao-ve-sinh-thai-cuc-doan-chang-khac-khung-bo/119/4342439.epi
3.Khủng bố sinh học không còn là hổ giấy. http://www.baodatviet.vn/Home/KHCN/Khung-bo-sinh-hoc-khong-con-la-ho-giay/20098/55570.datviet (25/08/2009)
4.Michael J. Penders and William L. Thomas, Ecoterror: Rethinking Environmental Security after September 11 NR&E Winter 2002

Theo VACNE.ORG.VN

Tags: ,