Đàm phán tại Paris bắt đầu từ năm 1969, nhưng bế tắc với các phiên công khai. Để tháo gỡ, Mỹ và Hà Nội sắp xếp kênh bí mật, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger là nhân vật chính.
Đàm phán tại Paris bắt đầu từ năm 1969, nhưng bế tắc với các phiên công khai. Để tháo gỡ, Mỹ và Hà Nội sắp xếp kênh bí mật, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger là nhân vật chính.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký ngày 27/1/1973, sau gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 24 cuộc họp bí mật.
Hình ảnh lắng đọng nhất trong tôi về đồng chí Lê Đức Thọ là mái đầu bạc trắng khi đồng chí tuyên cáo với thế giới về thắng lợi của Việt Nam sau ký kết Hiệp định Paris năm 1973.
Trong cuộc gặp ngày 2/5/1972 tại Paris, Henry A. Kissinger vẫn giữ thái độ lập trường thương lượng trên thế mạnh, đồng thời, đề cập đến việc Mỹ cũng đã trao đổi thảo luận với Liên Xô…
“Hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam. Vì thế, tôi không thể nhận giải thưởng này và người xứng đáng nhận giải thưởng Nobel Hòa bình chính là nhân dân Việt Nam”.
Trong gần 5 năm diễn ra Hội nghị Paris, Việt kiều tại Pháp đã trở thành lực lượng hùng hậu hỗ trợ hai đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Với thắng lợi của Hiệp định Paris, chúng ta đã tiến một bước dài quan trọng trong việc xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước trong suốt 20 năm ròng rã.
Với nhiều người Việt, Giao thừa 1973 là đẹp nhất, là được “ăn” cái Tết to nhất. Cuộc kháng chiến giành thắng lợi vô cùng quan trọng, kẻ xâm lược phải ký hiệp định cam kết rút hết quân trước toàn thế giới.
Đến miền Bắc Việt Nam sau khi Hiệp định Paris được ký kết, phóng viên Đức Werner Schulze đã ghi lại những hình ảnh khó quên về cuộc sống ở nơi đây khi tiếng bom đạn đã ngừng…
Cuộc đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định Paris 1973 thể hiện sự đối đầu toàn diện về chiến lược và chiến thuật, bản lĩnh và trí tuệ, đạo lý và pháp lý giữa Việt Nam và Mỹ.