Sự nghiệp của Karl Marx

Tên tuổi của Karl Marx cùng với Friedrich Engels mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người mở ra một con đường tiến bộ, có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại.

Sự nghiệp của Karl Marx

Tiểu sử của Karl Marx

Karl Marx (1818 – 1883) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein. Trier là một thành phố cổ của Đức, thời Trung cổ, Trier là thủ đô của một công quốc tôn giáo lớn, nơi cư trú của đại giáo chủ xứ Trier. Tuy vậy, Trier không nằm ngoài phong trào xã hội sôi động ở nước Đức và cuộc sống yên tĩnh của thành phố này cũng bộc lộ những mâu thuẫn xã hội sâu sắc giữa dân nghèo thành thị với thiểu số tầng lớp thị dân giàu có.

Heinrich Marx là một người cha có nhân cách khác thường, học rộng, hiểu biết khá rõ về những tác phẩm của các nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII, đặc biệt về Jean Jacques Rousseau (Giăng Giăcơ Russô) và Voltaire (Vôlte). Heinrich Marx rất yêu quý con trai, đáp lại Karl Marx cũng rất gắn bó với cha. Tình cảm cha con không hề bị suy giảm ngay cả trong thời kỳ xảy ra những bất đồng quan điểm trong nhận thức về sứ mệnh cuộc đời hai bố con. Suốt đời Karl Marx hết sức kính trọng bố, luôn luôn đem theo mình tấm ảnh của bố chụp theo lối Daguerre (Đagher cổ).

Mẹ của Karl Marx, bà Henrietta Presburg, vốn gốc người Hà Lan, mẹ của chín người con nên bà chỉ ở nhà làm công việc nội trợ. Thế giới tinh thần của bà bị bó hẹp và bà không trở thành người bạn thực sự của con trai như bố đối với Karl Marx. Trong bốn anh em trai và năm chị em gái thì Karl Marx là người con yêu trong gia đình, là linh hồn của đám trẻ cùng lứa tuổi vì đầu óc thông minh, biết bày ra các trò chơi hấp dẫn, biết sáng tác ra đủ mọi thứ chuyện tưởng tượng.

Thời niên thiếu và thanh niên

Năm mười hai tuổi (1830) Karl Marx vào học trường trung học ở Trier, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. Marx cũng tỏ ra có năng lực về toán học.

Thời học phổ thông Marx may mắn gặp có những thầy tốt như thầy hiệu trưởng trung học ở Trier dạy lịch sử và triết học, thầy dạy toán và vật lý – những người theo chủ nghĩa duy vật và có xu hướng tự do.

Mùa thu 1835, Marx tốt nghiệp trung học, sau đó, tháng Mười năm 1835, Marx vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của bố, Marx theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, chàng thanh niên Marx đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Marx bốn tuổi, Janny vôn Vestphalen, con gái viên Tam đẳng đại thần Ludwig vôn Vestphalen thuộc dòng dõi quý tộc. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Marx bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, Marx bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hégel, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 Marx tập trung nghiên cứu những vấn đề của lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, Karl Marx nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của Épicure tại trường Đại học Tổng hợp Jena (Jêna).

Tháng Năm 1843, Marx đến Kroinak, một thành phố nhỏ vùng Rhein, nơi Jenne vôn Vestphalen, vị hôn thê của Marx đang sống cùng với mẹ. Ngày 19 Tháng Sáu 1843, Marx chính thức làm lễ thành hôn với Jenny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Jenny.

Những năm tháng sống ở nước ngoài

Cuối tháng Mười 1843, vợ chồng Karl Marx đi Paris, thủ đô nước Pháp. Sau này Marx có dịp đến Paris một vài lần nữa, nhưng chuyến đi Paris đầu tiên mà Marx lưu lại một năm rưỡi là quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với sứ mệnh chính trị của Karl Marx.

Lần đầu tiên, Marx gặp Engels vào cuối tháng Mười một 1842, khi Engels trên đường sang Anh và ghé thăm Bộ biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Engels đến thăm Marx ở Paris. Trong 10 ngày ở thăm Paris, Marx và Engels đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý luận và thực tiễn.

Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất Marx. Ngày 3 tháng Hai 1845, Marx rời Paris đến Brussel, ít lâu sau Engels cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1845 ở Pháp nổ ra, Chính phủ Bỉ đã trục xuất Marx. Ông lại đến Paris, tháng Tư 1848, Marx cùng với Engels đến Koln, một thành phố nhỏ trên bờ sông Rhein nước Đức, và tại đây Marx trở thành Tổng biên tập tờ Báo Mới tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất Marx. Ông lại đến Paris, nhưng lần này ông chỉ lưu lại 3 tháng. Tháng Tám 1849, từ Paris Marx đi London và sống đến cuối đời (1883).

Ngày 14 tháng Ba 1883, Marx qua đời ở London và được an táng tại nghĩa trang Highgate (Haighết), Bắc London.

Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử của Karl Marx

Mới 19 tuổi (1837), Karl Marx đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hégel (1770 -1831), triết gia Đức nổi tiếng và là người sáng lập ra học thuyết về phép biện chứng duy tâm. Đặc biệt, Marx chú ý đến triết học của Épicure (Êpicur) một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại.Quan tâm đến vấn đề thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, Marx đã giải quyết được những vấn đề quan trọng như triết học có chứng minh tất cả những cái hiện tồn tại là hợp lý hay không, hay là nó chứa đựng trong bản thân nó cái cần phải có ngược với cái đang tồn tại. Marx đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Épicure muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín.

Trong luận án tiến sĩ Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démecrite và triết học tự nhiên của Épicure (1841) Marx kịch liệt chống mê tín, dị đoan và mọi triết học phản động muốn việc nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích của tôn giáo. Tiếp theo, Marx đã viết một bài báo sắc sảo (2-1842) chống lại sự kiểm duyệt báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế nhà nước Phổ. Marx phê phán mạnh mẽ hơn chế độ chuyên chế Phổ và những nhà tư tưởng bênh vực cho chế độ này khi trở thành người lãnh đạo tờ báo Rheinische Zeitung vào tháng Mười 1842. Tháng Giêng 1843 Chính phủ Phổ ký lệnh đình bản tờ báo. Marx càng nhận thức rõ hơn ở Vương quốc Phổ không thể công khai tuyên truyền cách mạng được. Từ thời điểm này trở đi vấn đề cơ bản mà Marx quan tâm là vấn đề cách mạng, bản chất, nguyên nhân và động lực của nó.

Công tác thực tiễn ở báo Rheinisehe Zeitung đã làm thay đổi về cơ bản thế giới quan của, chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ – cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Nghiên cứu tác phẩm của Hégel, Marx thấy rõ Nhà nước không phải là hiện thân của lý trí thế giới, hiện thân của cái chung đứng riêng các lợi ích riêng như Hégel khẳng định. Marx thấy phải xét lại một cách có phê phán cái quan niệm duy tâm của Hégel về xã hội và nhà nước, phát hiện những động lực thật sự của tiến bộ xã hội, những biện pháp và hình thức làm biến đổi thế giới bằng cách mạng. Thời kỳ này, Marx viết một công trình quan trọng phê phán học thuyết của Hégel về Nhà nước và pháp luật có nhan đề: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hégel (sau khi Marx qua đời công trình này mới được xuất bản ở Liên Xô năm 1927). Đóng góp to lớn về mặt lý luận của Marx trong quá trình phê phán Hégel đưa ra một quan niệm đúng đắn về một chế độ xã hội dân chủ, ở đó nền dân chủ là sự tự quyết của nhân dân, lợi ích của nhân dân.

Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp – Đức) Marx đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp quyền của HégelLời mở đầu, khẳng định rằng giai cấp có thể thực hiện việc giải phóng toàn thể nhân loại phải là giai cấp vô sản. Cũng trên tờ tạp chí này có hai tên tác giả đứng cạnh nhau: Karl Marx và Friedrich Engels, người sau này gắn liền với tên tuổi và học thuyết cách mạng của Karl Marx. Tuy nhiên những quan điểm mới của Kar Marx trình bày trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher chỉ là một giả thuyết thiên tài đối với sự phát triển lịch sử của xã hội. Nó cần được chứng minh về mặt lịch sử. Và Marx đã hướng toàn bộ hoạt động lý luận để phục vụ việc chứng minh này.

Hiện thực khách quan sinh động ở nước Pháp thời gian Marx sống ở Paris đã giúp Marx hiểu sâu hơn cơ cấu nội tại của sự phát triển chủ nghĩa tư bản và những mâu thuẫn của nó.

Từ tháng Tư – tháng Tám 1844. Marx viết Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này Marx phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản.

Tháng Hai 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của Marx và Engels viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hégel trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của Marx ở Paris kết thúc (tháng Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà Marx tự đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới.

Marx cùng với Engels hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846) tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hégel và phái Hégel trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Ludwig Feuerbach (Ludvich Phoiơbach). Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) Marx đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J.Proudhon (Pruđông) và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản.

Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản Marx và Engel viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Marx và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Marx và Engels đã phân tích một cách sâu sắc vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội loài người. Cuộc đấu tranh giữa những người bị áp bức và những kẻ áp bức là động lực chủ yếu của sự phát triển lịch sử. Vạch rõ những quy luật chủ yếu của cuộc cách mạng vô sản, Marx và Engels viết rằng, bước đầu tiên của cuộc cách mạng đó là “biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Tư tưởng đó là tư tưởng xác lập “chuyên chính của giai cấp vô sản” (mặc dù trong Tuyên ngôn chưa có thuật ngữ này), và khái niệm chuyên chính vô sản và nhà nước vô sản được thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn. Đồng thời Marx cũng khẳng định rõ đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển và quy luật bạo lực cách mạng trong việc giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản.

Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của Karl Marx Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết mác xít về giá trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Karl Marx.

Karl Marx là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 Tháng 9 năm 1864, ở London. Marx dốc toàn bộ tâm sức của mình để thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại. Năm 1867, Bộ Tư bản (tập I) – tác phẩm chủ yếu của Marx ra đời. Tập II và III Marx không kịp hoàn tất, Engel đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này.

Trong Bộ Tư bản của mình Karl Marx đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất tư bản nói chung: sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở thành tư bản (tích luỹ tư bản), tích luỹ ban đầu của tư bản (tập I); những vấn đề về giá trị thặng dư và lợi nhuận, sự chuyển hoá của lợi nhuận thành lợi nhuận trung bình, tư bản cho vay và tư bản thương nghiệp v.v…(tập II và III).

Tóm lại, Marx đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ v.v…Trong kết luận của bộ Tư bản, Marx nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Trong tác phẩm những năm cuối đời Marx nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pari (Cuộc nội chiến ở Pháp – 1881).

Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gotha (1875) Marx đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp – chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cao – chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi Quốc tế I giải tán, Marx nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.

Karl Marx mất ngày 14/3/1883 lại thủ đô London, Vương quốc Anh.Sau khi Marx mất, Engels tiếp tục hoàn thành và xuất bản các công trình lý luận của Marx; tổ chức, lãnh đạo Quốc tế II và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới vào những năm cuối Thế kỷ 19.

Tên tuổi củaKarl Marxcùng với Friedrich Engels mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ.

T.H

Tags: ,