Luận về bản tính thiện, ác: Học thuyết của Tuân Tử, Hàn Phi

Bản năng vị kỷ, vụ lợi là nguồn gốc tạo nên “tính ác” trong con người – đây là điều mà Tuân tử và Hàn Phi đã từng lên án từ hơn 2.200 năm trước.

Luận về bản tính thiện, ác: Học thuyết của Tuân Tử, Hàn Phi

Chúng ta đã biết Sigmund Freud ví tâm lý con người như một tảng băng, trong đó ý thức chỉ là phần nổi bên trên, còn phần lớn chìm bên dưới là vô thức. Đáy của vô thức là những bản năng nguyên sơ, có ngay từ lúc mới sinh, được Freud gọi là “id”. Chẳng hạn khi bị đói thì bản năng “id” thúc giục em bé khóc đòi ăn, v.v. Bản năng này là hoàn toàn tự nhiên, không đạo đức và cũng không vô đạo đức.   Sau vài năm tuổi, khi đứa trẻ bắt đầu biết phân biệt bản thân với môi trường xung quanh, trong tâm thức của nó sẽ dần dần hình thành nên “cái tôi” (ego) – tâm lý muốn thoả mãn bản năng “id” bằng cách giành giật những điều kiện tốt nhất trong môi trường xung quanh về cho mình. Freud nhận xét: “Trẻ em hoàn toàn vị kỷ; chúng có những đòi hỏi mãnh liệt và nằng nặc đòi thoả mãn những đòi hỏi đó”. Cái tôi ấy sẽ phát triển ngày càng sâu sắc hơn và đeo đẳng suốt đời người, ngay cả khi đã hình thành ý thức: “Ở đâu có bản năng id, ở đó cái tôi sẽ có mặt”, Freud kết luận. Đó chính là bản năng vị kỷ, vụ lợi – nguồn gốc tạo nên “tính ác” trong con người – mà Tuân tử và Hàn Phi đã từng lên án từ hơn 2200 năm trước.

Học thuyết “tính ác” của Tuân tử:

Tuân tử là một nhân vật rất độc đáo trong các đại hiền của Trung Hoa cổ đại. Độc đáo ở tính cách “hiện đại” – tư tưởng của ông có những điểm rất giống tư tưởng của con người trong xã hội hiện đại. Chẳng hạn, trong khi hầu hết các tôn giáo đều khuyên con người phải chế dục thì ông lại chống đối thuyết quả dục và khử dục. Theo ông, “tình và dục là tự nhiên ai cũng có, không thể bớt đi hay bỏ đi mà không hại. Hữu dục mà hợp đạo cũng không hại, khử dục mà trái đạo cũng vô ích”. Điều này cho thấy Tuân tử là một người rất thực tế, thậm chí thực dụng. Tính cách này tạo nên cái độc đáo thứ hai – tính cách độc lập, không nô lệ vào các bậc tiền bối.

Thật vậy, sinh sau Khổng tử hơn 200 năm, sau Mạnh tử hơn 50 năm, và mặc dù cũng đi theo tôn chỉ của Nho giáo – đề cao lễ nghĩa, trung dũng, hiếu nghĩa – nhưng Tuân tử đã mạnh mẽ bác bỏ học thuyết tính thiện của Khổng-Mạnh, nêu lên học thuyết “Tính ác”, khẳng định bản chất con người là ác.

Sự đối lập trong nhận định về bản tính thiện/ác rất quan trọng, vì nhận định thế nào thì sẽ có một chính sách cai trị thế ấy: học thuyết “Tính ác” của Tuân tử dẫn tới hệ quả trực tiếp là học thuyết pháp trị của Hàn Phi.

Tuân tử nói có điều gì đó sai trong quan điểm của Mạnh tử khi cho rằng bản chất con người là thiện. Ông nghĩ rằng quan điểm này quá lý tưởng và ông không tin vào điều đó. Bản chất con người, ông nói, không thực sự thiện. Quan điểm của ông có xu hướng Machiavelli nhiều hơn; ông tin rằng bản chất con người là xấu, và cần phải kiểm soát nó, và đây chính là chỗ làm nẩy sinh ra triết học pháp trị – một triết học gây nên nhiều tranh cãi”. Đó là nhận định của một bài báo trên trang mạng “Chinese Philosophy” (Triết học Trung Hoa).

Nhưng nói Tuân tử có “xu hướng Machiavelli” có nghĩa là thế nào?

“Xu hướng Machiavelli” là một thuật ngữ, trong tiếng Anh là “Machiavellian” (một tính từ) hoặc “Machiavellianism” (một danh từ chỉ xu hướng), xuất phát từ tên của Nicolò Machiavelli (1469-1527) – người được coi là một trong những cha đẻ của chính trị học hiện đại. Quan điểm của Machiavelli về chính trị có ảnh hưởng sâu rộng trên khắp Châu Âu từ thế kỷ 16 đến nay, tạo nên một kiểu nhận thức chính trị được gọi là “xu hướng Machiavelli”.

Xu hướng này lộ rõ trong các tác phẩm của Machiavelli, nổi bật là cuốn “The Prince” (Ông hoàng), trong đó tác giả thể hiện thái độ chấp nhận, thậm chí cổ võ cho những nhân vật có quyền lực nhưng vô đạo đức. Từ đó sản sinh ra thuyết “mục đích biện minh cho phương tiện” (the end justifies the means) và hình thành nên một cách hiểu khái niệm “chính trị” theo hướng tiêu cực, như Bách khoa toàn thư Wikipedia đã giải thích:

Machiavelli là nhà tư tưởng chính trị độc nhất mà tên tuổi của ông đã được sử dụng phổ biến để ám chỉ một kiểu chính trị được hướng dẫn thuần tuý bởi việc sử dụng mọi thủ đoạn để đạt tới mục đích, bất chấp phương tiện là tốt hay xấu”.

Đôi khi công trình của ông cũng bị coi là đã góp phần vào việc tạo ra hàm ý tiêu cực hiện nay trong các từ ngữ “chính trị” và “nhà chính trị”, và đôi khi người ta cho rằng chính vì ông mà cái tính từ Machiavellian trở thành một thuật ngữ có hàm ý xấu để mô tả những người chủ trương lừa dối và lôi kéo người khác để giành giật lợi ích cho cá nhân mình”.

Từ đó, khái niệm “xu hướng Machiavelli” lan rộng ra phạm vi nghiên cứu xã hội học và tâm lý học. Thậm chí trong những năm 1960, Richard Christie và Florence Geis còn tiến hành một thí nghiệm mang tên Mach-IV để đo “xu hướng Machiavelli”, nhằm đánh giá mức độ tiêu cực trong tâm lý của mỗi người. Thí nghiệm này đưa ra 20 câu hỏi trắc nghiệm.

Chẳng hạn:

– Đừng nói với ai lý do thực sự để bạn làm một việc nào đó, trừ khi việc nói rõ lý do là có lợi, bạn có đồng ý như thế không? (câu hỏi 1).

– Phải chăng hầu hết mọi người đều có bản chất tốt và tử tế? (4).

– Không thể tha thứ cho việc nói dối, bạn có đồng ý không? (7).

– Phải chăng phần lớn những người thành đạt trên thế giới đều có cuộc sống trong sạch và đạo đức? (11).

Tuỳ theo câu trả lời “yes” hay “no”, giám khảo sẽ cho điểm. Tổng số điểm được gọi là “chỉ số Mach” – chỉ số thể hiện tâm lý và thái độ của mỗi người đối với bản chất con người và xã hội. Chỉ số Mach cao có nghĩa là xu hướng Machiavelli cao, tâm lý thất vọng và thái độ tiêu cực cao. Chỉ số Mach thấp, xu hướng Machiavelli thấp, tương ứng với thái độ chấp nhận các tiêu chuẩn đạo đức và quy phạm xã hội đã được thừa nhận rộng rãi.

Đến đây đã có thể hiểu vì sao học thuyết Tuân tử “bị” coi là “có xu hướng Machiavelli nhiều hơn”, đơn giản vì học thuyết này thiên về bản chất tiêu cực của con người nhiều hơn. Thật vậy, Tuân tử nói: “Nay cái tính của người ta sinh ra là có hiếu lợi. Thuận cái tính ấy thì thành ra sự tranh đoạt, mà sự từ nhượng không có vậy; sinh ra là có đố kị, thuận cái tính ấy thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có vậy; sinh ra là có lòng muốn của tai mắt, có cái thích về thanh sắc, thuận cái tính của người ta, ắt là sinh ra sự tranh đoạt, hợp với việc phạm phận, loạn ly mà thành ra tàn bạo. Lấy thế mà xem thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính là người ta gây ra (tạo ra) vậy”.

Tuy nhiên so với Freud, cái nhìn của Tuân tử có phần tích cực hơn:

Trong khi Freud bi quan đến mức cho rằng con người chủ yếu là nô lệ của bản năng và do đó “rất vô đạo đức hơn ta tưởng” thì Tuân tử vẫn tin vào khả năng cải tạo con người. Ông nói: “Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã” (Bản tính của người là ác, những điều thiện là do con người đặt ra), có nghĩa là tuy con người có bản chất xấu, nhưng bản chất đó có thể cải tạo được nhờ cái thiện do con người tạo ra – cái thiện ấy là sản phẩm của giáo dục, lễ nghĩa, hình pháp, mà Tuân tử đặc biệt coi trọng.

Vậy, khi nói Tuân tử “có xu hướng Machiavelli nhiều hơn” thì điều đó chỉ có nghĩa là học thuyết của ông thiên về việc tố cáo tính ác nhiều hơn, thay vì hiểu lầm rằng bản thân ông chấp nhận tính ác đó.

Tuy nhiên, vì học thuyết của ông xuất phát từ “tính ác”, nên hệ quả tất yếu của nó là tư tưởng coi trọng hình pháp. Tư tưởng này đã được một học trò xuất sắc của ông là Hàn Phi phát triển lên thành một học thuyết, được gọi là “học thuyết pháp trị” (Legalism), một học thuyết đến nay vẫn còn gây nên nhiều tranh cãi, kẻ khen, người chê đều không thiếu. Nhưng dù khen hay chê cũng đều phải thừa nhận rằng, nếu có một học thuyết Đông phương cổ đại có xu hướng Machiavelli rõ rệt thì đó chính là học thuyết pháp trị của Hàn Phi.

Học thuyết pháp trị của Hàn Phi:

Cuối đời chiến quốc (thế kỷ 3 trước CN), Trung Hoa rơi vào loạn lạc, chiến tranh liên miên, lòng người phân tán, ai nấy chỉ còn biết lo cho bản thân mình. Lý thuyết Khổng-Mạnh lúc này trở thành quá lý tưởng, xa rời thực tế, không thể giúp các nhà chính trị ứng phó với thời cuộc để ổn định quốc gia và xã hội. Bối cảnh ấy thúc đẩy sự ra đời của học thuyết “Tính ác” của Tuân tử và hệ quả tất yếu của nó là học thuyết pháp trị của Hàn Phi.

Toàn bộ tư tưởng của Hàn Phi được gói trong bộ “Hàn Phi tử”, gồm 55 thiên, nội dung xoay quanh câu hỏi chủ yếu là “làm thế nào để xây dựng một nhà nước vững mạnh có trật tự?” và câu trả lời chủ yếu là “pháp trị” – dùng luật pháp để cai trị. Hệ thống luật pháp phải công khai, chặt chẽ, quy củ, thưởng phạt đâu ra đấy, đủ nghiêm khắc để người cai trị không cần bận tâm nhiều đến lễ nghĩa, giáo dục, mà vẫn đảm bảo xã hội yên ổn trật tự. Đó là dấu hiệu rõ rệt của “xu hướng Machiavelli”.

Tiếp thu và thấm nhuần học thuyết “Tính ác” từ sư phụ của mình, Hàn Phi có nhiều dịp kiểm nghiệm học thuyết ấy thông qua những điều mắt thấy tai nghe trong cái xã hội tranh giành, vụ lợi, tha hoá đạo đức cuối thời chiến quốc. “Cả kinh nghiệm sống lẫn nền giáo dục mà ông được thụ hưởng cùng đóng góp vào việc định hình tư tưởng của bộ Hàn Phi tử – tư tưởng về một nền luật pháp được xây dựng trên cơ sở nhận thức bản chất con người là vô luân và vụ lợi”.

Nếu bức tranh của Tuân tử về con người chứa đầy những mảng xám thì thực tiễn đen tối thời cuối chiến quốc làm cho bức tranh của Hàn Phi trở thành một mầu đen tuyệt đối. Hãy xem những bức tranh ông vẽ sau đây:

Bất chấp quan hệ máu mủ ruột thịt, có những cha mẹ đẻ ra con trai thì ăn mừng trong khi đẻ ra con gái thì đem giết bỏ. Cả hai hành động đều xuất phát từ cùng một cha mẹ, nhưng đối xử phân biệt hết sức tàn nhẫn, chỉ vì cân nhắc và tính toán mối lợi của gia đình trong tương lai lâu dài

Một đứa con bị cha mẹ đối xử không tốt, nó sẽ lớn lên với nỗi oán hận cha mẹ. Lúc trưởng thành, nó không phụng dưỡng cha mẹ cho tử tế, cha mẹ lại oán giận nó. Do đó, quan hệ giữa cha mẹ với con cái, vốn là quan hệ thân thiết nhất trong tất cả các quan hệ, vẫn gây ra những oán thoán thù hận, tất cả đều do lợi ích của mỗi người không được đáp ứng như người đó mong muốn

Thợ xe ngựa làm ra xe ngựa, nên mong có nhiều người giầu; thợ áo quan làm ra áo quan, nên mong có nhiều người chết. Không phải thợ xe ngựa có lòng tốt, ấy chỉ vì được lợi khi có nhiều người giầu; cũng chẳng phải thợ áo quan ghét bỏ mọi người, ấy chỉ vì được lợi khi có nhiều người chết. Tất cả đều do vụ lợi mà ra”.

Thầy thuốc rút máu độc ra khỏi vết thương của bệnh nhân, không phải vì ông ấy là cha đẻ của bệnh nhân, mà chỉ vì nhận được lệ phí do bệnh nhân chi trả”.

Những mô tả “đầy máu lạnh” nói trên giúp các nhà sử học hiểu được rất nhiều sự thật ở Trung Hoa thời chiến quốc. Hiện thực phũ phàng ấy làm cho Hàn Phi hoàn toàn mất niềm tin vào khả năng giáo hoá con người bằng lễ nghĩa, đạo lý, và do đó hối thúc ông đi tới chỗ cho rằng chỉ có thể cai trị con người bằng sức mạnh trừng trị của pháp luật. Ông nói: “Chỉ có vài người có thể bị ảnh hưởng bởi những học thuyết chính trực, (trong khi) mọi người đều phục tùng sức mạnh”.

Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, trong học thuyết của mình, Hàn Phi không chú trọng đến đạo đức, vì theo ông, “đạo đức là một công cụ lỏng lẻo và không hiệu quả để giáo dục một dân số khổng lồ”. Ông tán thành lý thuyết của thầy ông về “tính vô đạo bẩm sinh” của con người. Nhưng thay vì đề xuất một chương trình giáo dục hướng tới đạo đức (như thầy ông chủ trương), “ông lại đi theo xu hướng thực dụng, đề nghị một chương trình lèo lái con người bằng chính cái bản chất vụ lợi của họ, để họ chủ động tham gia vào cuộc chạy đua hoặc chiến tranh nếu cần thiết, miễn là cải thiện được xã hội và phát triển nhà nước”.

Tóm lại, Hàn Phi chính là một Machiavelli của Trung Hoa cổ đại!

Hàn Phi hoàn toàn xứng đáng để cùng với Machiavelli được coi là những cha đẻ của chính trị học hiện đại. Nếu Machiavelli vừa được khen vừa bị chê thì dư luận đối với Hàn Phi tất nhiên cũng như vậy.

Khen vì Hàn Phi là người đầu tiên nêu cao tư tưởng pháp trị: “nước phải có phép, xã hội phải có lề luật”, đó là cái mà xã hội hiện đại gọi là “xây dựng nhà nước pháp quyền”. Trong tinh thần pháp trị ấy, Hàn Phi có những luận điểm rất “hiện đại”, đặc biệt là tư tưởng công bằng. Ông nói:

Pháp luật không hùa theo người sang …”.

Nói cách khác: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Đó là tuyên ngôn đầu tiên của hầu hết mọi bản hiến pháp hiện đại!

Tất nhiên, trong thời đại của Hàn Phi, luật pháp vẫn là ý chí của vua, có nghĩa là vẫn có “một người sang” đứng trên pháp luật. Đó là hạn chế của thời đại mà chúng ta không thể đòi hỏi nhiều hơn ở Hàn Phi được.

Vậy làm thế nào để có một bộ luật đứng trên mọi cá nhân?

Câu trả lời: Đó là thể chế cộng hoà và dân chủ mà Cách mạng tư sản Pháp 1789 được xem như đã có công khai sáng. Vậy là phải đợi hơn 2000 năm sau, tư tưởng công bằng của Hàn Phi mới trở thành hiện thực!

Để đảm bảo tính công bằng pháp trị đó, Hàn Phi đòi hỏi tính công khai minh bạch: “Pháp là phép tắc hiệu lệnh rõ ra ở chỗ công, hình phạt là để cho lòng dân quyết chắc mà theo. Ai giữ phép cẩn thận thì thưởng, trái lệnh thì phạt”. “Pháp là biên rõ ra ở trong sách vở, bày ra ở chỗ công và tuyên bố ra chỗ trăm họ”.

Vào thế kỷ 3 trước công nguyên mà đã có những tư tưởng văn minh như vậy thì quả là ông đã đi trước thời đại quá xa. Tinh thần văn minh ấy còn biểu lộ rất rõ ở đòi hỏi của ông về tính trong sạch của bộ máy thực thi luật pháp: “Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho  pháp chế sáng rõ, mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi, không lo việc làm cho nước giầu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền, trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và có thực tài”.

Ông viết “Cô phẫn” (sự phẫn nộ của người cô độc) để bầy tỏ sự “thương xót đối với những người thanh liêm chính trực không được bọn gian tà dung tha”. Ông lên án “bọn nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp; bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn cấm”. Qua đó có thể thấy tính cách nổi bật của Hàn Phi là cương trực, ngay thẳng, khát khao trông thấy một xã hội ngay ngắn, thượng tôn pháp luật, trong đó bất kể già trẻ trai gái, sang hèn cao thấp, ai ai cũng có tinh thần luật pháp.

Sau Hàn Phi 20 thế kỷ, Charles de Secondat Montesquieu cho ra đời tác phẩm trứ danh: “Tinh thần luật pháp” (L’Esprit des Loix), được coi như một ngọn đuốc khai sáng làm thức tỉnh nhân loại về sự cần thiết của một xã hội pháp quyền, và dạy cho chúng ta hiểu rằng: Tinh thần luật pháp còn quan trọng hơn chính pháp luật!

Montesquieu lên tiếng tha thiết: “Không có quốc gia nào mạnh bằng một quốc gia tuân thủ luật pháp của nó không phải vì sự sợ hãi hoặc lý lẽ, mà vì một tình cảm mạnh mẽ”. Tình cảm mạnh mẽ ở đây là gì, nếu không phải là một tinh thần luật pháp mạnh mẽ nằm trong trái tim của mọi người?

Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã thừa hưởng tư tưởng đó để thiết lập nên thể chế cộng hoà, trong đó pháp luật trở thành công cụ điều chỉnh mọi hành vi của xã hội. Từ đó “tinh thần luật pháp” lan rộng ra khắp thế giới và trở thành một trong những chuẩn mực văn minh của xã hội hiện đại.

Nhưng nếu Montesquieu được suy tôn và biết ơn thì Hàn Phi lại không gặp thời: Ông đã dâng lên vua Hàn kế sách pháp trị, nhưng không được dùng. Chẳng bao lâu sau, nước Hàn bị nước Tần thôn tính.

Trớ trêu thay, Tần Thuỷ hoàng rất ngưỡng mộ Hàn Phi, nhưng lại nghe dèm của Lý Tư mà giết Hàn Phi. Đó là bi kịch thứ nhất. Bi kịch này không liên quan đến học thuyết của Hàn Phi. Nó chỉ nói lên rằng Tần Thuỷ hoàng, mặc dù thông minh đến mức phải thốt lên rằng “Than ôi, Quả nhân mà được chơi bời với con người này thì có chết cũng không ăn năn”, nhưng lại không đủ thông minh để thực lòng trọng kẻ sĩ, kính người tài. Đó là nguồn gốc dẫn tới bi kịch thứ hai: Tần Thuỷ hoàng áp dụng chính sách pháp trị của Hàn Phi đến mức khốc liệt, đốt sách chôn nho, gây nên oán hận muôn đời.

Một số học giả cho rằng Hàn Phi cũng phải chịu một phần trách nhiệm của bi kịch đó, bởi “cái học của Hàn Phi là chủ ở cái chính sách chuyên chế độc tôn, lấy pháp luật mà trị nhân chúng, chứ không cần đến nhân nghĩa và tài trí”. Quả thật, Hàn Phi từng nói: “Bỏ đạo thường, chuộng kẻ hiền, thì loạn; bỏ phép, dùng kẻ trí, thì nguy. Cho nên nói: chuộng phép mà không chuộng hiền”. Nếu coi đây là chỗ đáng chê của Hàn Phi thì xét cho cùng, đó là cái lỗi thái quá, chưa đạt đến Trung Dung.

Phàm cái gì thái quá đều hỏng. Trung dung là chiếc kim thăng bằng của cán cân vũ trụ. Sự thái quá của học thuyết pháp trị của Hàn Phi là ở chỗ chỉ nhìn thấy tính ác của con người mà không thừa nhận tính thiện, cho dù tính ác cũng là điều không thể phủ nhận được.

S.T

Tags: , ,