⠀
Lịch sử phát triền của nền âm nhạc cổ điển
Lịch sử của nền âm nhạc cổ điển được chia thành 6 thời kỳ lớn: Thời kỳ Trung cổ, Thời kỳ Phục Hưng, Thời kỳ Baroque, Thời kỳ Tiền cổ Điển và Cổ điển, Thời kỳ Lãng mạn và Thời kỳ Hiện đại.
Nguồn: Encarta.msn.co. Biên dịch: Lê Thanh Huyền / Nhaccodien.info.
THỜI KỲ TRUNG CỔ (TRƯỚC THẾ KỶ 15)
Âm nhạc đầu thời kì Trung cổ
Ở thời Trung cổ, hầu hết các nhạc sĩ chuyên nghiệp đều được nhà thờ Cơ đốc giáo tuyển dụng. Vì nhà thờ đối lập với ngoại giáo liên quan đến Hi Lạp và La Mã cổ đại nên nó không khuyến khích việc biểu diễn âm nhạc Hi Lạp và La Mã. Hậu quả là loại âm nhạc này bị tàn lụi.
Người ta biết rất ít về thể loại thánh ca không nhạc đệm được sử dụng trong những nghi lễ nhà thờ thời kỳ đầu. Tuy nhiên thể loại thánh ca Cơ đốc giáo xuất hiện được bắt nguồn từ âm nhạc lễ nghi của đạo Do Thái và những giai điệu thế tục thời đó. Những giai điệu thánh ca phát triển ở Roma được sáng tác và ấn định cho những trình tự cụ thể trong những nghi lễ nhà thờ trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 7. Thánh ca La Mã được biết tới như thánh ca Gregorian theo tên của Giáo hoàng Gregory, giáo hoàng Vĩ đại, người có thể đã sáng tác một số giai điệu và là người tích cực khuyến khích các nhà thờ sử dụng âm nhạc được lễ nghi hóa một cách có thứ tự. Vì Gregory và các giáo hoàng về sau ưa thích thánh ca Gregorian hơn những thể loại khác đã phát triển ở châu Âu, thánh ca Gregorian cuối cùng đã thế chỗ cho hầu hết những thể loại khác. Phong cách thánh ca Gregorian và các thể loại thánh ca khác được gìn giữ trong nhiều bản thảo viết tay. Các ký hiệu âm nhạc được sử dụng trong những bản thảo viết tay này thuộc hệ thống ký hiệu neumes , cội rễ sớm nhất của hệ thống ký hiệu âm nhạc hiện đại.
Ít nhất cũng phải đến thế kỉ thứ 9 nhiều nhạc sĩ mới cảm thấy sự cần thiết phải có một thứ âm nhạc phức tạp hơn kiểu giai điệu không nhạc đệm. Họ bắt đầu thêm vào bè giọng hát được hát đồng thời với những đoạn của thánh ca. Kết quả là sự ra đời của phong cách âm nhạc gọi là organium (một hình thức âm nhạc phức điệu sớm nhất). Trong phong cách organium thời kỳ đầu, bè giọng hát được thêm vào chạy song song một cách đơn giản với giai điệu thánh ca nhưng được hát trên đó một quãng tư hay quãng năm. Về sau bè thêm vào trở thành một giai điệu đối âm độc lập. Organium có vị trí quan trọng trong lịch sử âm nhạc vì đó là bước đầu tiên hướng tới sự phát triển của kết cấu âm nhạc được biết đến là phức điệu (polyphony), việc sử dụng nó ở phạm vi rộng là đặc trưng nổi bật nhất của âm nhạc phương Tây.
Vào khoảng cuối thế kỉ 12, organium được viết theo ba hoặc bốn bè giọng hát, hình thành những tác phẩm dài có thể choán đầy không gian mênh mông của những nhà thờ Gothic bằng âm lượng lớn. Những trung tâm phát triển chính của organium là ở Pháp, tại Tu viện Saint Martial ở Limoges và tại Nhà thờ Đức Bà Paris. Kỹ thuật organium kiểu Anh, gọi là gymel, đến giai đoạn này cũng đã phát triển.
Để các nhạc sĩ có thể đọc và biểu diễn một số bè giọng hát khác nhau một cách đồng thời, một hệ thống ký hiệu âm nhạc tỉ mỉ đã được phát triển. Ký hiệu cao độ được giải quyết bằng việc sử dụng một khuông nhạc gồm 4, 5 dòng kẻ hoặc hơn thế, với mỗi dòng hay khoảng trống giữa chúng đại diện cho một cao độ cụ thể, như là ký hiệu âm nhạc ngày nay. Sự hoàn hảo của hệ thống này là nhờ ở tu sĩ Ý dòng Benedictine Guido d’Arezzo thế kỉ 11. Ký hiệu về nhịp thời gian tỏ ra khó hơn. Giải pháp được rút ra trong thế kỉ 11 và 12 là dựa vào một nhóm những mẫu hình nhịp điệu ngắn gọi là những kiểu nhịp. Mẫu hình hay kiểu nhịp tương tự được lặp đi lặp lại cho đến khi nhà soạn nhạc chỉ ra bằng một kí hiệu theo đó một kiểu nhịp khác thế chỗ nó. Nhờ việc sử dụng “ký hiệu cách thức” này trong âm nhạc, một sự đa dạng các chương nhịp đạt được bằng cách sử dụng những kiểu khác nhau một cách đồng thời trong các bè giọng khác nhau và bằng cách thay đổi các kiểu trong tiến trình một tác phẩm. Đến cuối thế kỉ 13 người ta đã bỏ kiểu ký hiệu cách thức và những ký hiệu đầu tiên của hệ thống những giá trị nốt dài và ngắn hiện đại đã được đưa vào sử dụng.
Organium là một bước phát triển âm nhạc phức tạp ban đầu được những giáo sĩ có trình độ trong nhà thờ Cơ đốc giáo khuyến khích và đánh giá cao. Một truyền thống âm nhạc thế tục, đơn giản hơn trong cấu trúc, đã tồn tại bên ngoài nhà thờ. Đây là thứ nhạc đơn âm của các nhạc sĩ lưu động, những người hát rong và con cháu họ, những người hát rong Pháp và Đức.
Cả âm nhạc tôn giáo và thế tục đều sử dụng nhiều loại nhạc cụ, gồm các đàn dây như lyre, psaltery và fiddle thời trung cổ, hoặc đàn viele. Các nhạc cụ phím gồm cả organ. Các nhạc cụ gõ gồm cả trống nhỏ và chuông nhỏ.
Âm nhạc cuối thời kì Trung cổ
Một sự thay đổi lớn về phong cách xảy ra trong âm nhạc suốt đầu thế kỉ 14. Phong cách mới được giáo sĩ cấp cao người Pháp Philippe de Vitry, một trong những nhà soạn nhạc hàng đầu của thời kỳ này, gọi là ars nova (tiếng Latin nghĩa là “nghệ thuật mới”). Kết quả là âm nhạc thời kỳ này phức tạp hơn mọi tác phẩm được viết trước đó, phản ánh một tinh thần mới ở châu Âu làm nổi bật sự tài tình và khéo léo của con người. De Vitry cũng tìm ra một hệ thống gồm cả những kí hiệu về thời gian. Điều này cho phép các nhạc sĩ thế kỉ 14 đạt được một sự tự do về nhịp điệu mới trong sáng tác của họ.
Những phức tạp mới mang một số hình thức. Nới rộng nguyên tắc của những thể thức nhịp ngắn, các nhà soạn nhạc ars nova đã sử dụng những mẫu hình nhịp gồm 12 nốt hoặc nhiều hơn mà chúng lặp đi lặp lại trong một hoặc nhiều bè giọng của tác phẩm. Nguyên tắc mới được gọi là nhịp tương tự (isorhythm, trong tiếng Hi Lạp iso nghĩa là “tương tự”). Các nhà soạn nhạc đã sử dụng một bè giọng được sắp xếp tương tự về nhịp như nền tảng của các tác phẩm lớn và đan kết những giai điệu lên đó để trình bày những ý đồ đa thanh phức tạp. Giọng nền thường được tiếp quản từ một phần của thánh ca Gregorian. Giai điệu vay mượn này được biết đến là cantus firmus (tiếng Latin nghĩa là “giai điệu cố định”. Thể loại âm nhạc trong đó các nhà soạn nhạc sử dụng nguyên tắc nhịp tương tự với mức độ lớn nhất là motet (tạm dịch là thánh ca ngắn). Một số motet, thêm vào sự phức tạp về cấu trúc còn có một số lời ca được hát một cách đồng thời.
Điều phức tạp thứ hai của ars nova liên quan đến cấu trúc tổng thể của âm nhạc được viết cho thể loại mass (thánh ca). Trước năm 1300, những tác phẩm phức điệu đôi khi đã được viết thành những phần riêng rẽ của mass. Vào thế kỉ 14, lần đầu tiên, cả năm phần cấu tạo nên một mass như thông lệ được xem như một tổng thể hòa nhập. Người đầu tiên làm điều này là giáo sĩ, nhà thơ và nhà soạn nhạc Pháp Guillaume de Machaut. Tuy nhiên tiền lệ của ông không được đi theo cho đến tận thế kỉ tiếp đó.
Một đặc trưng nổi bật của ars nova là sự quan tâm hơn đến âm nhạc thế tục. Lần đầu tiên những nhà soạn nhạc lớn đã viết cả nhạc thế tục và nhạc tôn giáo. Những giai điệu không được phối hòa âm mà những người hát rong thế kỉ 13 hát đã được các nhà soạn nhạc thế kỉ 14 phát triển thành những tác phẩm ba giọng gọi là chanson (tiếng Pháp nghĩa là “bài ca”). Những mẫu hình lặp lại dòng trong lời ca áp dụng cho những chanson này quyết định hình thức tổng thể của âm nhạc. Các hình thức phối hợp thường được sử dụng nhất ở Pháp là rondeau, virelai và ballade. Ở nước Ý madrigal, caccia và ballata là những kiểu được ưa thích hơn. Nhà soạn nhạc Ý nổi bật nhất thời kỳ này là Francesco Landini.
THỜI KỲ PHỤC HƯNG (1400-1600)
Chống lại những phức tạp của ars nova, hầu hết các nhà soạn nhạc đầu thế kỉ 15 ưa thích phong cách âm nhạc đơn giản hơn với những giai điệu chảy trôi êm ả, những hòa âm nghe êm tai hơn và ít nhấn mạnh vào đối âm hơn. Nhà soạn nhạc Anh John Dunstable là người đầu tiên đẩy mạnh việc hướng tới một phong cách đơn giản hơn. Những nét thanh nhã trong phong cách của ông sớm được các nhà soạn nhạc khác ở lục địa châu Âu tiếp thu, đặc biệt là những người phục vụ các công tước Bourgogne miền bắc nước Pháp. Những nhà soạn nhạc Bourgogne này nổi tiếng bởi những chanson trong đó một bè giọng thể hiện giai điệu chính và một hoặc hai bè khác đảm nhiệm vai trò phần đệm. Những người Bourgogne, đầu tiên là Machaut, cũng phát triển thông lệ sáng tác mass với các phần như một tổng thể hòa nhập. Kết quả là mass trở thành một thể loại bất hủ, về tầm vóc có thể sánh với các giao hưởng thế kỉ 19. Các mass sử dụng một cantus firmus (bè chính, bè cao nhất) thường được dựa trên những chanson hay những giai điệu thế tục khác. Thực tế này phản ánh ảnh hưởng gia tăng của mối quan tâm đến mảng thế tục trong thời Phục hưng.
Trong viết nhạc đối âm, những nhà soạn nhạc thời Phục hưng dựa nhiều vào việc mô phỏng, sự trình bày liên tiếp, gần gụi về khoảng cách trong một hay nhiều bè giọng có cùng ý đồ giai điệu. Kỹ thuật mô phỏng đã được sử dụng từ cuối thế kỉ 14 nhưng trong thời Phục hưng nó đã trở thành một yếu tố cấu trúc chính trong âm nhạc. Nếu một bè giọng bắt chước một bè giọng khác một cách nhất quán trong một khoảng cách thời gian dài vừa phải, hai bè giọng sẽ hình thành nên một canon (tạm dịch là “luân khúc”). Trong âm nhạc thời Phục hưng, những cặp bè giọng chuyển dịch trong một canon suốt cả tác phẩm hay một phần tác phẩm trong khi những mô phỏng ngắn hơn diễn ra trong những bè giọng khác.
Nhà soạn nhạc nhiều tài nhất đầu thời Phục hưng là Guillaume Dufay. Ông đã viết các motet có sự phức tạp gần với phong cách của ars nova cũng như các chanson theo một kiểu mới hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhà soạn nhạc nổi bật về thể loại chanson là Gilles Binchois.
Ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc Bourgogne đến giữa thế kỉ 15 đã suy giảm. Từ khoảng năm 1450 đến khoảng 1550 hầu hết các chức vụ về âm nhạc quan trọng ở châu Âu do những nhà soạn nhạc sinh vào thời đó ở Hà Lan, Bỉ và những vùng của nước Pháp kề cận đó nắm giữ. Những nhà soạn nhạc này thường được gọi là Người Hà Lan theo tên vùng đất quê hương họ.
Nói chung những Người Hà Lan ưa thích kiểu âm thanh đồng nhất hơn, chẳng hạn như do một hợp xướng không nhạc đệm tạo ra. Kết cấu âm nhạc chiếm ưu thế của họ là đối âm với mọi bè giọng có tầm quan trọng ngang bằng. Các đặc trưng âm nhạc này tương phản với kiểu âm thanh Bourgogne điển hình, trong đó mỗi bè giọng có mầu sắc riêng (chẳng hạn như một giọng solo được hai nhạc cụ solo khác đệm cho) và trong đó một giọng sẽ trội hơn các giọng khác.
Những Người Hà Lan tiếp tục truyền thống Bourgogne về sáng tác chanson, motet và mass. Mặc dù nhiều tác phẩm mass xuất sắc được sáng tác vào cuối thế kỉ 15 và thế kỉ 16 nhưng thể loại mass khi đó không tạo ra một sự thách thức như nó đã từng làm đối với những nhà soạn nhạc Bourgogne. Các kỹ thuật cơ bản để thống nhất một bản mass toàn vẹn đã trở thành đặc tính chung của mọi nhà soạn nhạc, lời ca của mass, vẫn luôn giữ nguyên, khơi gợi ít kiểu phổ nhạc hơn. Phần lớn vì những lý do này, thể loại motet trở thành phương tiện biểu lộ để thử nghiệm. Lời ca, rút ra từ mọi phần của Kinh Thánh cũng như từ các nguồn khác, gợi ra cho các nhà soạn nhạc nhiều ý tưởng âm nhạc mang tính minh họa. Chanson của thế kỉ 16 đã xa rời hẳn vẻ hấp dẫn đơn giản của các bài tình ca Bourgogne. Chúng có xu hướng được đối âm tỉ mỉ hoặc là được rót đầy bằng các ngụ ý âm nhạc dí dỏm ám chỉ tiếng gọi chim, tiếng rao của những người bán dạo ngoài phố và tương tự thế. Những chanson của các nhà soạn nhạc người Paris Claudin de Sermisy và Clément Janequin minh họa cho phong cách thứ hai.
Những Người Hà Lan hàng đầu là Johannes Okeghem, Jacob Obrecht, Josquin Desprez và Orlando di Lasso. Trong số những nhạc sĩ Ý nổi bật nhất cuối thời Phục hưng có Giovanni da Palestrina. Âm nhạc của ông điển hình cho dòng phức điệu hợp xướng ngang bằng, điều là tiêu chuẩn chính của phong cách âm nhạc Phục hưng. Những nhạc sĩ danh tiếng khác của thời kỳ này gồm cả nghệ sĩ organ, nhà soạn nhạc người Anh William Byrd và nhà soạn nhạc người Tây Ban Nha Tomás Luis de Victoria. Điều quan trọng đối với sự phát triển của âm nhạc là sự phát triển của các kỹ thuật in ấn tác phẩm âm nhạc. Được một thợ in Venice tên là Ottaviano dei Petrucci sáng chế ra lần đầu tiên, các kỹ thuật như vậy mau chóng được đưa vào sử dụng ở Antwerp, Nürnberg, Paris và Rome.
THỜI KỲ BAROQUE (1600-1700)
Vào cuối thế kỷ 16, khi tính phức điệu thời Phục hưng vẫn còn đang thịnh hành, những tiến triển mới ở Ý đã bắt đầu làm thay đổi âm giọng và cấu trúc của âm nhạc. Rất nhiều nhạc sĩ Ý không thích phong cách đối âm của những Người Hà Lan. Mong ước được tranh đua với nền âm nhạc cổ điển điển hình của người Hy Lạp, họ thích những cấu trúc ít phức tạp hơn, được biểu lộ bằng những sự tương phản thường gây xúc động, chủ đề dễ hiểu và sự tác động lẫn nhau của các giọng hát và nhạc cụ. Những yếu tố như thế trở nên đặc biệt nổi bật trong thể loại opera, một thể loại lần đầu tiên được trình diễn ở Florence vào cuối thế kỷ 16 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio Monteverdi. Những thể loại mới khác của thanh nhạc (vocal music) gồm có cantata và oratorio.
Khí nhạc cũng ngày càng trở nên nổi bật trong suốt thế kỷ 17 này, thường ở hình thức một tác phẩm đối âm liên tục với sự phân chia không rõ ràng giữa các đoạn hoặc các chương, nó đã sinh ra những cái tên như ricercare, fantasia và fancy. Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.
Với sự gia tăng của các thể loại mới ở thế kỷ 17, một vài khái niệm cơ bản về cấu trúc âm nhạc đã bị biến đổi, đặc biệt là ở Ý. Thay vì viết những bản nhạc mà trong đó tất cả các giọng từ soprano tới bass tham gia một cách bình đẳng vào hoạt động âm nhạc, các nhà soạn nhạc chỉ tập trung vào các phần của soprano hay bass và đơn thuần lấp đầy những khoảng trống còn lại bằng những hợp âm. Sự cách quãng chính xác của những hợp âm không quan trọng và các nhà soạn nhạc thường cho phép người chơi đàn phím ứng biến chúng. Các thuật ngữ như basso continuo và figured bass liên quan đến bè trầm và việc lấp đầy âm, cái làm thành một bố cục được sử dụng tất cả các thể loại âm nhạc, đặc biệt là các bài hát solo.
Một sự cách tân quan trọng khác của thế kỷ 17 đã biến phong cách hay thay đổi của âm nhạc gần cuối thời phục hưng sang một phong cách đặc trưng bởi các yếu tố nhiều tương phản, người ta biết đến nhiều cái tên khác nhau như concertato, concertate và concerto, từ concertare (tiếng Latin nghĩa là “sát cánh chiến đấu”). Những tương phản xuất hiện ở nhiều cấp độ âm nhạc, chẳng hạn như các nhạc cụ tương phản hoặc mật độ tương phản của âm thanh, ví dụ như với một nhạc cụ solo đối đáp cùng một nhóm nhạc cụ, những tỉ lệ tương phản của tốc độ và những mức độ tương phản của âm lượng. Những đặc trưng tương phản này được tạo nên để ganh đua hay luân phiên bằng một nhạc cụ khác nhằm tạo ra một phong cách âm nhạc năng nổ và kích động, được áp dụng vào âm nhạc viết cho mọi loại nhạc cụ cũng như cho giọng hát và được dùng cho mọi hình thức và thể loại.
Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 này bao gồm: các nhạc sỹ người Ý Arcangelo Corelli, Alessandro Scarlatti, Domenico Scarlatti và Antonio Vivaldi, các nhạc sỹ người Đức Dietrich Buxtehude và Heinrich Schutz , nhạc sỹ người Anh Henry Purcell , nhạc sỹ người Pháp gốc Ý Jean Baptiste Lully, và nhạc sỹ người Pháp Jean Philippe Rameau.
Về cuối thế kỷ 17, một hệ thống những mối liên hệ hoà âm gọi là “khoá nhạc” bắt đầu thống trị âm nhạc. Sự phát triển này tạo cho nền âm nhạc một trào lưu ngầm những mối liên hệ hệ tầm xa giúp gọt giũa đi một vài chỗ còn thô của những đối âm trong phong cách thời đầu Baroque. Đến đầu thế kỷ 18 các nhạc sĩ đã đạt tới một sự kiểm soát chắn chắn đối với những bắt buộc phức tạp của khóa nhạc. Cũng đến thời kỳ này, họ đã từ bỏ trên quy mô lớn quan niệm về sự thay đổi thường xuyên trong “Điệu” (mood) và đã bắt đầu ưa thích một phương pháp có mức độ hơn và đồng nhất hơn. Thường một bản nhạc hay chương nhạc hoàn chỉnh là một soạn thảo công phu của một năng lực cảm xúc được gọi là “làm xúc động”. Sự kiểm soát đối với khóa nhạc và sự nhấn mạnh vào các điệu đơn trên quy mô lớn đã dẫn đến cảm xúc bảo đảm và chắc chắn trong âm nhạc thời kỳ này, kể cả âm nhạc của hai nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức cuối thời Baroque là Johann Sebastian Bach và George Frideric Handel.
THỜI KỲ TIỀN CỔ ĐIỂN VÀ CỔ ĐIỂN (1730-1820)
Từ khoảng năm 1720 những tiến triển mới một lần nữa lại bắt đầu làm suy yếu phong cách âm nhạc đang thịnh hành. Các nhạc sĩ trẻ thấy rằng sự đối âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lí trí, họ ưa thích một sự biểu lộ âm nhạc tự nhiên, ít gò bó hơn. Thêm vào đó, tư tưởng cuối thời Baroque về việc hình thành một đặc tính cảm xúc độc đáo và duy trì nó trong suốt một tác phẩm dường như đang thui chột đi đối với các nhạc sĩ trẻ này.
Sự phản ứng lại phong cách Baroque này có những hình thức khác nhau ở Pháp, Đức và Ý. Ở Pháp một trào lưu mới thường được gọi là rococo hay style galant (tiếng Pháp có nghĩa là “phong cách nhã nhặn”), có đại diện là nhà soạn nhạc người Pháp François Couperin. Phong cách này nhấn mạnh kết cấu cùng một chủ điệu, nghĩa là giai điệu cùng với phần đệm có sự hài hoà âm thanh. Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mĩ chẳng hạn như những tiếng rung (trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.
Ở miền Bắc nước Đức, phong cách tiền cổ điển được gọi là “Empfindsamer Stil” (tiếng Đức-nghĩa là “phong cách nhạy cảm”). Nó chứa đựng một phạm vi những cảm xúc trái ngược rộng hơn hơn phong cách Galant-thường có xu hướng tao nhã và vui vẻ một cách đơn thuần. Các nhà soạn người Đức luôn viết các tác phẩm dài hơn so với các tác phẩm của người Pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật âm nhạc thuần túy để thống nhất các tác phẩm của mình. Họ không dựa vào các hình tượng phi âm nhạc như người Pháp đã làm. Người Đức, do vậy, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các hình thức trừu tượng, như hình thức sonata, và trong sự phát triển của thể loại lớn như concerto, sonata và symphony.
Ở Italy, phong cách tiền cổ điển không có một cái tên dành riêng cho nó, có lẽ bởi vì nó không cắt đứt một cách đột ngột với âm nhạc thời ngay trước đó. Tuy nhiên các nhà soạn nhạc Italy cũng đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của các thể loại mới, đặc biệt là symphony. Opera overture của người Ý thường được gọi là sinfonia, thường không có sự kết nối về âm nhạc hay tính kịch với chính vở opera mà nó giới thiệu. Thỉnh thoảng các nhạc công Italy chơi các Opera overture trong các buổi hoà nhạc và các nhà soạn nhạc rốt cuộc đã bắt đầu viết các bản khí nhạc độc lập theo quy mô Overture. Quy mô này gồm 3 chương, chương đầu và cuối với tốc độ nhanh và chương giữa với tốc độ chậm. Trong mỗi chương sự phát triển của các ý tưởng âm nhạc thường theo một khuôn mẫu mà cuối cùng phát triển thành hình thức sonata.
Các nhà soạn nhạc người Ý đã từng hình thành ý tưởng viết một sinfonia khí nhạc độc lập, thế rồi Người Đức đã tiếp tục ý tưởng và áp dụng tính khéo léo nhiều trí tuệ vào đó. Các trung tâm hoạt động chính của người Đức là ở Berlin, Mannheim và Vienna. Như là kết quả của các hoạt động trên quy mô lớn, các hình thức, thể loại và cách thức truyền đạt âm nhạc khác nhau đã được sinh ra. Sự khác biệt phát sinh giữa phương tiện truyền đạt của âm nhạc thính phòng (chamber music), trong đó mỗi nhạc cụ sẽ chơi phần của mình, và phương tiện truyền đạt của âm nhạc giao hưởng (symphonic music), trong đó nhiều nhạc cụ cùng chơi một phần. Trong phạm trù âm nhạc thính phòng các nhà soạn nhạc bắt đầu phân biệt một số phương tiện truyền đạt như string quartet (tứ tấu đàn dây), string trio (tam tấu đàn dây) và keyboard sonata (sonata đàn phím) với phần đệm của violin. Với các thể loại cho dàn nhạc, các nhà soạn nhạc không chỉ viết các symphony mà còn cả các concerto cho nhạc cụ solo cùng dàn nhạc.
Symphony, sonata, concerto và string quartet đều theo những đề cương có hình thức tương tự. Chúng đều có ba hoặc bốn chương, một hoặc nhiều hơn trong số các chương đó ở hình thức sonata. Được việc sử dụng khóa nhạc phức tạp, đã phát triển đến cuối thời Baroque, tạo cho khả năng, hình thức sonata đã hồi sinh vào giữa quãng thế kỷ 18 và khai thác được mạng lưới phức tạp các quan hệ hoà âm giữa các âm và hợp âm riêng biệt trong cùng một điệu hay giữa các điệu khác nhau. Hình thức sonata được dựa trên một chương rời bỏ rồi lại quay lại điệu chính. Thêm vào đó là sự trình bày những chủ đề đối lập tại đầu mỗi chương và phát triển một hay tất cả các chủ đề một cách công phu hay riêng rẽ về sau.
Giai đoạn phát triển đỉnh điểm của âm nhạc thế kỷ 18 là vào cuối thế kỷ này khi một nhóm các nhà soạn nhạc được biết đến như “Trường phái cổ điển Vienna”, mà nổi bật nhất có Joseph Haydn, Wolfgang Amadues Mozart, Ludwig van Beethoven.
Opera thế kỷ 18 cũng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Ngay tại quê hương của opera là Italy, nó cũng đã mất đi rất nhiều đặc tính nguyên thuỷ như là một vở kịch với âm nhạc. Thay vào đó nó đã trở thành một loạt các aria được viết cho các giọng ca tài năng thể hiện. Một số nhà soạn nhạc châu Âu lại đưa vào các bản interlude và accompaniment khí nhạc như một yếu tố quan trọng. Họ tiến hành sử dụng các hợp xướng lớn hơn và đưa ra nhiều phong cách và hình thức aria hơn trước. Họ cũng cố gắng để phối hợp các nhóm recitative, aria, duet, chorus và các phần khí nhạc vào các lớp lang thống nhất. Cải cách quan trọng nhất là nhà soạn nhạc sinh ra ở Bavarian, Christoph Willibald Gluck, người mà các opera có ảnh hưởng nhất được viết ở Vienna và Paris từ năm 1764 đến 1779. Opera thời kì Cổ điển đạt tới đỉnh cao nhất trong các tác phẩm sân khấu của Mozart, trong đó đó mọi khía cạnh của thanh nhạc lẫn khí nhạc đều góp phần vào sự phát triển của cốt truyện và sự mô tả tính cách nhân vật.
THỜI KỲ LÃNG MẠN (1800-1910)
Đầu thế kỉ 19, các tác phẩm âm nhạc của trường phái cổ điển Vienna với những tên tuổi như Haydn, Mozart, Beethoven chiếm lĩnh toàn bộ châu Âu. Các nhà soạn nhạc đã thường viết các bản biến tấu theo phong cách này, một phong cách có thể mang lại nhiều ấn tượng. Phong cách này có khuynh hướng trở thành công thức ở trong bàn tay của những nhà soạn nhạc kém tài năng. Một phần vì lí do này mà các cuộc thí nghiệm của những nhà soạn nhạc thời kì 1810 – 1820 dần dần bắt đầu tìm đến những phong cách mới.
Cuộc phiêu lưu của những nhạc sĩ cũng không kéo dài lâu, có cảm giác rằng việc thiết yếu là kết hợp tất cả các yếu tố trong âm nhạc của họ cũng là việc bảo vệ sự trọn vẹn của những nguyên tắc chung. Họ bắt đầu đề cao những giá trị âm nhạc khác hơn là những giá trị truyền thống. Thay vì kiểm soát chúng, họ lại bắt đầu đề cao những phẩm chất như sự bốc đồng và khác lạ. Sức mạnh của họ, lấy ví dụ, họ phát triển những hợp âm ít thông dụng thậm chí những hợp âm này không nằm trong cấu trúc hòa âm tổng thể của tác phẩm. Cũng như vậy, nếu âm thanh của những nhạc cụ đặc thù dường như thu hút một cách đặc biệt theo suốt quá trình diễn biến của bản giao hưởng, họ đã viết những đoạn độc tấu hoa mĩ dài cho nhạc cụ này, cho dù những đoạn solo này làm hình thù tác phẩm thêm căng cứng. Bằng cách này hay cách khác, những nhạc sĩ thế kỉ 19 bắt đầu phô ra sự lãng mạn, đối nghịch lại phong cách cổ điển, đó là quan điểm nghệ thuật của họ. Thẩm mĩ về trường phái Lãng mạn đặc biệt lên cao ở Đức và Trung Âu. Các tác phẩm khí nhạc của nhạc sĩ người Áo, Franz Schubert và các tác phẩm piano và opera của nhạc sĩ người Đức Carl Maria von Weber là những biểu hiện sớm sủa của sự phát triển âm nhạc.
Những nhà soạn nhạc thời kì Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn không âm nhạc khác. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng. Nhạc sĩ người Pháp Hector Berlioz và nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt trở nên đặc biệt nổi bật trong thể loại này. Các bài thơ trong thế kỉ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Những bài hát nghệ thuật của Đức thường được biết đến dưới cái tên Đức là lied (số nhiều là lieder). Hàng trăm lieder được viết trong thế kỉ 19, những nhà soạn nhạc đặc biệt thành công trong thể loại này là Franz Schubert, Robert Schumann, Johannes Brahms, Hugo Wolff và cuối thế kỉ là Richard Strauss.
Một trong những thể loại lí tưởng của thế kỉ 19 là opera. Tại đây, tất cả những loại hình nghệ thuật hòa cùng nhau mở ra những quang cảnh hùng vĩ, những cao trào của xúc cảm và là cơ hội tốt cho những giọng ca tuyệt vời khoe giọng. Tại Pháp, Gasparo Spontini và Giacomo Mayerbeer sáng tạo ra thể loại grand opera. Jacques Offenbach -một người Pháp khác đã phát triến thể loại comic-opera (gọi theo tiếng Pháp là opéra bouffe). Những tác giả viết opera quan trọng nhất của Pháp còn phải kể đến Charles Gounod và Georges Bizet. Ở Ý, Gioacchino Rossini, Gaetano Donizetti và Vincenzo Bellini tiếp tục phong cách opera truyền thống của Ý từ thế kỉ 18 bel canto (tiếng Ý có nghĩa là hát đẹp). Tại Ý vào nửa cuối thế kỉ 19, Giuseppe Verdi đã làm giảm đi sự ảnh hưởng của lối hát bel canto bằng cách nhấn mạnh đến sự kịch tính trong những mối quan hệ giữa con người với con người. Giacomo Puccini thì quan tâm đến những mối tình ủy mị và những cảm xúc mãnh liệt. Tại Đức, Richard Wagner sáng tạo ra một phong cách opera mới mà chính ông tự gọi là nhạc kịch (drama music). Tại đây tất cả những khía cạnh của tác phẩm đều hướng đến trung tâm kịch tính hoặc ý đồ triết học. Không như Verdi luôn hướng đến đề tài con người, Wagner luôn quan tâm hơn đến những yếu tố mang tính truyền thuyết, thần thoại và coi đó là khái niệm của sự chuộc lỗi trước Chúa. Wagner thường phát triển những đoạn nhạc ngắn của giai điệu và hòa thanh, gọi là leitmotifs (tiếng Đức motif chủ đạo) nhằm đại diện cho con người, đồ vật, khái niệm và những thứ khác nữa. Những đoạn nhạc này được lặp lại bằng giọng hát hoặc dàn nhạc bất kì lúc nào khi những chúng xuất hiện trong suy nghĩ hoặc hành động của nhân vật.
Âm nhạc xuyên suốt thế kỉ 19 vẫn mang truyền thống trừu tượng, âm nhạc tuyệt đối vẫn được duy trì thông qua các bản giao hưởng và âm nhạc thính phòng. Schubert, Schumann, Brahms, nhạc sĩ người Đức Felix Mendelssohn, nhạc sĩ người Áo Anton Bruckner để lại những dấu ấn đặc biệt quan trọng. Nhạc sĩ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky sáng tác giao hưởng và các tác phẩm thính phòng cũng tuyệt vời như các vở opera hay âm nhạc có tiêu đề. Nhạc sĩ Ba Lan Frederic Chopin thì sáng tác ra những thể loại âm nhạc không tiêu đề, mang phong cách rất tự do, phóng khoáng.
Trong tất cả những thể loại âm nhạc, giá trị cao nhất vẫn được đánh giá thông qua sự khác thường độc đáo của những biểu hiện nghệ thuật. Điều này càng được tăng thêm không chỉ do sự mở rộng của những phong cách sáng tác khác người mà còn do sự sùng bái những nhạc trưởng và những nghệ sĩ biểu diễn bậc thầy. Hai người tiêu biểu nhất là Franz Liszt và nghệ sĩ violin người Ý Nicolo Paganini. Nhạc trưởng và nhạc sĩ người Áo Gustav Mahler viết những bản giao hưởng đều liên quan đến cuộc sống riêng tư của mình.
Phong cách âm nhạc của thời kì Lãng mạn đã thay đổi chút ít theo những cách khác nhau vào cuối thế kỉ 19. Sự phát triển của những hợp âm ít được sử dụng đã phá vỡ cơ cấu giọng. Nhiều nhạc sĩ, đặc biệt là Wagner thường xuyên sử dụng những hợp âm nửa cung (Chromatic). Cách diễn đạt âm nhạc dân gian ngày càng được mở rộng, trở thành một phần quan trọng trong những sáng tác của những nhạc sĩ Nga, Tiệp Khắc, Na Uy, Tây Ban Nha. Ta có thể kể đến nhạc sĩ người Nga Mikhail Glinka, Modest Mussorgsky và Nicolai Rimsky-Korsakov; nhạc sĩ Tiệp Khắc Antonin Dvorak và Bedrich Smetana; nhạc sĩ người Na Uy Edvard Grieg. Sau này còn nhiều nhạc sĩ sử dụng những yếu tố dân gian vào trong những tác phẩm của mình như nhạc sĩ người Mĩ Louis Moreau Gottaschalk, nhạc sĩ người Đan Mạch Carl Nielsen; nhạc sĩ Phần Lan Jean Sibelius và nhạc sĩ người Tây Ban Nha Manuel de Falla.
Theo mạch dân gian này tiến lên phía trước cùng với những yếu tố khác đã hình thành nên âm nhạc cổ điển thế kỉ 20, giới thiệu lại với nghệ thuật âm nhạc những khái niệm cũ về hòa thanh và nhịp điệu. Sự nghiên cứu lịch sử âm nhạc có hệ thống đã đem đến những kết quả giống nhau, trở lại thời kì đầu thế kỉ 19. Với sự tan rã của giọng, sự liên kết yếu kém giữa các bộ phận trong âm nhạc, sự phụ thuộc vào sự chuyển động của những hòa âm, cũng như sự lên xuống của cường độ và mật độ của âm thanh. Cách sử dụng âm thanh như là một yếu tố trong âm nhạc là một đặc điểm rất riêng của thời kì cuối lãng mạn theo phong cách Pháp, được gọi là Ấn tượng, do nhạc sĩ Claude Debussy và Maurice Ravel khởi xướng và phát triển. Những nhạc sĩ Pháp thậm chí còn viết theo phong cách châm biếm hơn như Francis Poulenc và Erik Satie.
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (1890-1975)
Âm nhạc thời kỳ hiện đại – chỉ riêng những từ này có thể cũng đủ làm bạn chạy xa cả dặm. Đúng, để nghe được âm nhạc thời kỳ hiện đại có thể cần nhiều nỗ lực hơn một chút so với âm nhạc ở những thời kỳ trước đó. Có nhiều chất liệu thú vị để khám phá. Đầu thế kỷ 20 là mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi nhanh chóng. Công nghệ đang thay đổi thế giới. Những nghệ sĩ, những nhà văn, những nhạc sĩ và những người biểu diễn bắt đầu phản ánh những thay đổi thông qua tác phẩm họ đưa ra. Và ngay lúc xã hội đang loại bỏ những quy tắc lâu đời đã thống trị trong nhiều thế kỷ, những nhà soạn nhạc đã đảo lộn những quy tắc âm nhạc và tìm ra những đề tài mới, táo bạo và những cách thức mới để thể hiện chúng.
Ở Vienna, một nhóm đứng đầu là Arnold Schoenberg cho rằng điệu tính đang trên đường được khai thác hết và quyết định từ bỏ nó. Điệu tính là một thứ tự logic trong đó những hợp âm và hòa âm trong âm nhạc ăn khớp với nhau. Từ bỏ nó có nghĩa là từ bỏ quan niệm rằng âm nhạc cần phải đẹp. Nhiều nhà soạn nhạc theo lối cũ nghi ngờ chủ nghĩa hiện đại nếu nó hàm ý những quan niệm cấp tiến như thế. Rachmaninov tiếp tục soạn nhạc theo phong cách lãng mạn, giàu đặc trưng của riêng mình cho tới tận những năm 1940. Những người khác, Sibelius chẳng hạn, cảm thấy bị bỏ lại phía sau và đơn giản là ngừng sáng tác.
Những nhà soạn nhạc thành công nhất là những người tìm được một nền tảng ở giữa – đi theo sự thay đổi trong khi vẫn phù hợp với cái nhìn của chính mình và giữ được tình cảm với thính giả. Richard Strauss bước vào những năm 1890 với một phong cách lãng mạn. Ông đã trở thành một trong những nhà soạn nhạc lớn nhưng vẫn chuyển sang chủ nghĩa hiện đại. Ông thu nhận một phiên bản mờ nhạt những ý tưởng của Schoenberg và tạo ra một sự dàn xếp có thể là thử thách để nghe nhưng cũng dễ dàng để có thể hiểu được.
Igor Stravinsky đã gây sốc và làm cho những thính giả vui thích trong suốt 70 năm sự nghiệp của ông. Những tác phẩm nối tiếng đầu tiên của ông là một loạt 3 vở ballet viết tại Paris cho đoàn Ballets Russes – The Firebird (Chim lửa), Petrushka và Rite of Spring (Lễ bái Xuân). Những âm thanh này hiện đại bởi việc sử dụng sự truyền động, nhịp điệu “máy móc” của chúng, phần nhiều trong số chúng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc dân gian Nga. Stravinsky cũng sử dụng một phong cách hòa âm mới mẻ, đặt những hợp âm khác lên trên một hợp âm khác nữa. Âm thanh tươi mới nhưng chưa bao giờ xa lánh người nghe. Stravinsky tiếp tục là một trong những nhà soạn nhạc thành công nhất của thế kỷ 20.
Âm nhạc dân gian cũng là một nguồn cảm hứng lớn cho nhiều nhà soạn nhạc khác. Tại nước Anh, Vaughan Williams trộn lẫn những âm thanh của những bài hát truyền thống và âm nhạc nhà thờ với những tàn dư của thời kỳ lãng mạn. Nhà soạn nhạc người Hungary Béla Bartók, giống như Stravinsky, đã viết thứ âm nhạc độc đáo dựa trên những nhịp điệu dân ca tiết tấu nhanh của đất nước quê hương. Cả Vaughan Williams và Bartók đều tích cực tập hợp những bài ca dân gian, viết chúng ra hoặc ghi âm chúng lại. Một nhà soạn nhạc khác là Messiaen lại sưu tầm những tiếng chim hót mà sau này ông sử dụng trong âm nhạc của mình.
Chắc chắn là âm nhạc chịu ảnh hưởng lớn bởi những sự kiện chính trị quan trọng làm rung chuyển châu Âu vào giữa thế ký 20. Nhiều nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn bị chuyển tới những trại tập trung Quốc xã vì những lý do lòng tin, tôn giáo hay chủng tộc. Và ở Liên bang Soviet, gọng kìm thép của Stalin lên xã hội có nghĩa rằng những nhà soạn nhạc như Prokofiev, Shostakovich và Khachaturian bị nhiều hạn chế trong những gì họ có thể làm.
Shostakovich nói riêng, đã từng bị chế độ Soviet ngược đãi khi âm nhạc của ông bị cho là quá “hiện đại” hay “élitist” (tin vào thuyết giáo dục phát triển tinh hoa). Kết quả là ông phải gượng gạo viết theo hai lối – những tác phẩm giao hưởng lớn và nhạc phim của ông có lẽ để làm hài lòng cơ quan thẩm quyền, trong khi đó những tác phẩm quy mô nhỏ hơn như những tứ tấu đàn dây xuất sắc của ông có lẽ phản ánh đúng hơn tiếng nói của riêng mình. Chúng ta chỉ có thể suy đoán điều này bởi vì Shostakovich qua đời trước khi thời đại Soviet kết thúc, mà có thể sau đó ông sẽ tự do để giải thích âm nhạc của mình một cách đầy đủ.
Đời sống chính trị và chiến tranh ở châu Âu đã khiến nhiều nhà soạn nhạc như như Stravinsky, Bartók, Schoenberg và Rachmaninov chuyển đến Mỹ. Điều này tạo ra một nơi tụ họp lạ thường những đầu óc tài năng, và những nhà soạn nhạc lớn người Mỹ đầu tiên như Aaron Copland và Samuel Barber xuất hiện, sáng tác với một phong cách mới, kết hợp những yếu tố văn hóa từ châu Âu và châu Mỹ. Theo cách giống như các đồng nghiệp châu Âu sử dụng âm nhạc dân gian, những nhà soạn nhạc Mỹ bắt đầu sử dụng chất liệu nhạc jazz bản xứ của mình. George Gershwin và sau đó là Duke Ellington bắt đầu viết ra thứ âm nhạc “nghiêm túc” để biểu diễn trong phòng hòa nhạc. Những người châu Âu như Stravinsky và Ravel đáp lại bằng thứ âm nhạc cũng bao hàm cả những phong cách jazz như Ebony Concerto của Stravinsky và Piano Concerto của Ravel.
Sự khủng khiếp của nạn tàn sát người Do Thái, Hiroshima và chiến tranh thế giới thứ II đã thuyết phục nhiều nhà soạn nhạc thời hậu chiến rằng hơn bao giờ hết, họ cần đặt quá khứ đằng sau và tìm những phương pháp tiên tiến hơn. Chẳng hạn, Structures (1951) của Pierre Boulez có mọi yếu tố của âm nhạc – giai điệu, nhịp điệu, thậm chí cả yếu tố êm ả-inh ỏi (loud-and-soft) theo điều khiển của toán học. Một nhà soạn nhạc khác là John Cage lại đòi hỏi thính giả của mình cân nhắc lại những quan niệm của họ về vẻ đẹp của những âm thanh tự nhiên. Ông đã viết tác phẩm nổi tiếng mang tên 4’33’’ (4 phút 33 giây) với thời lượng chính xác như vậy nhưng chỉ là sự yên lặng hay là những âm thanh bao quanh một phòng hòa nhạc, nếu bạn muốn nhìn nhận theo cách đó.
Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ hiện đại:
Stravinsky: The Rite of Spring, The Firebird
Bartók: Concerto for Orchestra
Strauss: Four Last Songs
Gershwin: Piano Concerto, Porgy and Bess
Bernstein: Candide
Copland: Appalachian Spring, Fanfare for the Common Man
Shostakovich: Symphony No. 5 ; Piano Concerto No. 2
Prokofiev: Romeo and Juliet
Theo NHACODIEN.INFO
Tags: Âm nhạc, Nhạc cổ điển