Chính sách đối ngoại của Ấn Độ và tác động đến an ninh chính trị Việt Nam

Từ khi Thủ tướng N. Modi lên cầm quyền, chính sách đối ngoại của Ấn Độ có sự điều chỉnh từ chú trọng lĩnh vực chính trị sang lĩnh vực kinh tế; ưu tiên, tăng cường thúc đẩy quan hệ rộng rãi với phương Tây, nhất là các nước lớn.

Chính sách đối ngoại của Ấn Độ hiện nay và tác động đến an ninh chính trị Việt Nam

Tác giả: PGS, TS Lê Văn Toan, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2018.

Ấn Độ đã tập trung thực hiện chính sách đối ngoại với 6 đặc điểm nổi bật: 1) Ấn Độ trên hết; 2) Ưu tiên vùng lân cận; 3) Vượt qua những chướng ngại lịch sử; 4) Từ thực hiện quy tắc đến tạo ra quy tắc; 5) Ấn kiều của Ấn Độ; 6) Tăng cường kết nối văn hóa. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ đã tạo điều kiện cho Việt Nam có lợi thế quan trọng trong việc thực thi chính sách đối ngoại “đa phương hóa”, “đa dạng hóa” nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; tạo điều kiện cho Việt Nam “cân bằng chiến lược” trong quan hệ với các nước lớn…

1. Bối cảnh thế giới tác động đến sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ

Từ những năm 1990 thế kỷ XX đến nay, bối cảnh quốc tế và khu vực đã có nhiều thay đổi với những diễn biến phức tạp, khó lường, thể hiện rõ trên những phương diện sau:

– Khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, đặc biệt là công nghệ thông tin đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Con người và tri thức khoa học trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển xã hội. Điều này được minh chứng cụ thể bằng hiện thực các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo, Israel,… những đất nước rất nghèo về tài nguyên nhưng lại phát triển rất nhanh chóng và bền vững.

– Xu thế toàn cầu hóa kinh tế tác động đến mọi nền kinh tế trên thế giới. Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng, quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu tất yếu của các nền kinh tế. Hợp tác phát triển kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. Điều này thúc đẩy các nước trên thế giới phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế.

– Tình hình chính trị, an ninh thế giới có nhiều bất ổn. Nhiều biến động phức tạp, đan xen khiến các quốc gia vừa cạnh tranh, vừa ảnh hưởng, vừa gia tăng phụ thuộc lẫn nhau. Vấn đề tôn giáo, sắc tộc, an ninh quốc gia, khu vực, tranh giành tài nguyên chiến lược, những vùng lãnh thổ, biên giới nhạy cảm; khủng hoảng di cư, bùng nổ dân số, tội phạm, đói nghèo,… đều là những thách thức không nhỏ mà mỗi nước phải đối mặt.

– Quá trình quốc tế hóa và khu vực hóa đã làm cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có nhiều biến đổi sâu sắc, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất. Mâu thuẫn, tranh chấp trong khu vực Biển Đông ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí làm thay đổi quan điểm chiến lược của một số nước, đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Ốtxtrâylia, các nước trong khối ASEAN.

Những nét khái quát trên cho thấy, bối cảnh thế giới hiện nay vô cùng phức tạp, vừa tạo nên thời cơ, đồng thời hàm chứa nhiều nguy cơ, có thể tác động bất ngờ đến các quốc gia dân tộc.

2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Ấn Độ cải cách kinh tế toàn diện theo hướng tự do hóa, mở cửa và tăng cường hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế, Ấn Độ đã đổi mới tư duy đối ngoại, điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Nguyên tắc căn bản là giữ vững hai mục tiêu: 1) Bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia; 2) Tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để tập trung phát triển kinh tế. Cụ thể là:

Một là, tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế thế giới, các nước láng giềng phía Đông nhằm tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế.

Hai là, đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp chính, như: tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo các quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn.

Ba là, nâng cao vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực và thế giới, đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc ở châu Á và trên thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Để thực hiện mục tiêu này, Ấn Độ đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình trên toàn thế giới mà trước mắt là ra các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương. Năm 1991 Ấn Độ đưa ra chính sách Hướng Đông (Look East Policy), đến thời Thủ tướng N. Modi đã nâng cấp thành chính sách Hành động phía Đông (Act East Policy). Ấn Độ cũng đang cố gắng xác lập vị trí, vai trò cường quốc trên trường quốc tế thông qua việc phấn đấu trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc.

Một trong những dấu ấn trong tư duy đối ngoại mới là tầm nhìn đối ngoại từ khi Thủ tướng N. Modi lên cầm quyền năm 2014. Tầm nhìn đối ngoại mới được xác định là: “Về cơ bản, là khởi động lại và định hướng lại các mục tiêu, nội dung và tiến trình thực hiện chính sách đối ngoại nhằm xác định sự tham gia chiến lược toàn cầu của Ấn Độ vào một mô hình mới và một cuộc vận động rộng rãi hơn, không chỉ giới hạn ở ngoại giao chính trị mà còn bao gồm các lợi thế về kinh tế, khoa học, văn hóa, chính trị và an ninh của Ấn Độ, cả ở quy mô khu vực lẫn toàn cầu, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi để dẫn đến một Ấn Độ mạnh mẽ hơn về kinh tế và có tiếng nói được lắng nghe trên diễn đàn thế giới”(1). Từ tầm nhìn mới, cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời Thủ tướng N.Modi bao gồm: 1) Ấn Độ trên hết; 2) Ưu tiên vùng lân cận; 3) Vượt qua những chướng ngại lịch sử; 4) Từ thực hiện quy tắc đến tạo ra quy tắc; 5) Ấn kiều của Ấn Độ; 6) Tăng cường kết nối văn hóa.

Quan sát thực tiễn thực thi chính sách đối ngoại mới của Ấn Độ, có thể thấy một số điểm như sau:

Một là, thay đổi từ tư duy lý tưởng sang tư duy mang tính thực dụng, trong đó có chính sách Hướng Đông(2).

Hai là, trong chính sách đối ngoại, thể hiện rõ sự điều chỉnh từ chú trọng lĩnh vực chính trị sang chú trọng lĩnh vực kinh tế.

Ba là, từ bỏ tư duy truyền thống chống phương Tây, chuyển sang ưu tiên, tăng cường thúc đẩy quan hệ rộng rãi với phương Tây, nhất là các nước lớn như Mỹ, Đức, Pháp,…

Bốn là, thay đổi cách thức, phương pháp nhằm mục tiêu trở thành cường quốc khu vực và thế giới.

Từ sự điều chỉnh chính sách đối ngoại, những năm gần đây, Ấn Độ đã thu được những kết quả rất khả quan. Cụ thể: đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ tăng hơn 40%, tăng 16 bậc trong chỉ số cạnh tranh toàn cầu và đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng hấp dẫn đầu tư của UNCTAD (Hội nghị của Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển). Ấn Độ được coi là điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất thế giới(3). “Dấu ấn toàn cầu của Ấn Độ tăng lên, từ một nước loay hoay tìm đường phát triển, quốc gia này đang trở thành một thế lực trỗi dậy toàn cầu; từ một nước với vị trí giữ cân bằng trở thành một quốc gia lãnh đạo, từ một nước tuân thủ các quy tắc trở thành một quốc gia đưa ra các quy tắc và thiết lập các chương trình nghị sự trên trường quốc tế. Đây là những thay đổi rất rõ ràng”(4).

3. Tác động của chính sách đối ngoại của Ấn Độ đến an ninh chính trị của Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ chính trị, ngoại giao rất tốt đẹp. Hai nước có độ tin cậy chính trị rất cao, sẵn sàng chia sẻ lẫn nhau trên hầu hết các vấn đề song phương cũng như đa phương, kể cả vấn đề luôn nóng và gay cấn như vấn đề Biển Đông.

Những chuyến thăm cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ của hai nước không những đặt nền tảng, tạo động lực cho việc triển khai các thỏa thuận hợp tác đã được ký kết mà còn thắt chặt thêm độ tin cậy chính trị giữa hai nước.

Lãnh đạo hai nước đều thống nhất khẳng định, việc phát triển quan hệ song phương giữa hai nước là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của từng nước, là nhân tố quan trọng để hai nước cùng phát triển thịnh vượng, bảo đảm hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới. Hai bên nhất trí tăng cường và mở rộng hơn nữa nội hàm của mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện trên năm trụ cột chính là: chính trị; ngoại giao; quốc phòng – an ninh; kinh tế – thương mại; năng lượng và văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, ngoại giao nhân dân.

Trên bình diện an ninh chính trị, Việt Nam và Ấn Độ có những lợi ích an ninh chính trị tương đồng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có việc đối phó với mối đe dọa từ các nước lớn. Hợp tác quốc phòng, an ninh là một trong những trụ cột quan trọng nhất của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Ấn Độ. Thực hiện tốt hợp tác quốc phòng, an ninh sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ giữa hai nước, giúp hai nước có cơ hội tăng cường sức mạnh, tạo nên thế cân bằng ở châu Á, thích ứng với cơ chế hợp tác an ninh – chính trị khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là làm thay đổi cán cân quân sự trên Biển Đông.

Hợp tác quốc phòng, an ninh giữa Việt Nam và Ấn Độ sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh lợi ích kinh tế từ các hợp đồng mua bán vũ khí, trang thiết bị, công nghệ quân sự và các dịch vụ cho Việt Nam, Ấn Độ có được sự ủng hộ của Việt Nam trong lĩnh vực chính trị, trong đó bao gồm đối tác đối thoại của Ấn Độ với ASEAN, tạo cơ sở cho Ấn Độ giữ vai trò lớn hơn trong khu vực Đông Á, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải. Ngược lại, giúp Việt Nam tăng cường khả năng hiện đại hóa lực lượng vũ trang, nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh, tăng cường năng lực phòng thủ để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Từ khi Ấn Độ điều chỉnh chính sách đối ngoại đến nay, cơ chế, hình thức, nội dung hợp tác quốc phòng Việt Nam – Ấn Độ đã có nhiều khởi sắc. Từ năm 2009, Việt Nam và Ấn Độ đã thống nhất thiết lập cơ chế đối thoại quốc phòng cấp thứ trưởng, trước hết nhằm trao đổi các vấn đề an ninh mà hai bên cùng quan tâm. Cơ chế đối thoại này luân phiên tổ chức tại Hà Nội và New Delhi. Cho đến nay, hai bên đã tổ chức được 9 phiên đối thoại quốc phòng. Nội dung chính của cơ chế Diễn đàn đối thoại quốc phòng chủ yếu xoay quanh các chủ đề về công tác đào tạo, trong đó chú trọng đào tạo tiếng Anh, kỹ thuật quân sự; hợp tác giữa các quân, binh chủng, đẩy mạnh hợp tác về hải quân, không quân; huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình; bàn thảo các chương trình cụ thể nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh ngày càng thiết thực hơn, hiệu quả hơn.

Hai nước thống nhất tăng cường trao đổi đoàn cấp Bộ trưởng quốc phòng. Ngày 25-5-2015, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Manohar Parrikar và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã ký kết “Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt Nam – Ấn Độ giai đoạn 2015-2020”. Ngày 5-6-2016, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Manohar Parrikar đã đến thăm Việt Nam và cùng Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch thống nhất quan điểm thúc đẩy hợp tác quốc phòng ngày càng đi vào chiều sâu và thiết thực hơn nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của hai nước, đưa quan hệ quốc phòng tương xứng với quan hệ Đối tác chiến lược mà hai nước đã xác định, vì sự phát triển của hai quốc gia, dân tộc, góp phần duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới.

Hai nước đã thống nhất tổ chức giao lưu quân đội như giao lưu sỹ quan trẻ, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, hợp tác giữa các quân binh chủng và công nghiệp quốc phòng, tổ chức tuần tra chung trên biển, tập trận chung giữa hải quân hai nước và tổ chức các chuyến tàu quân sự ghé thăm cảng biển của nhau.

Hai bên đã hoàn tất quá trình chuẩn bị và bắt đầu tổ chức thực hiện gói tín dụng 100 triệu USD (năm 2014), gói tín dụng 500 triệu USD (năm 2016) mà Ấn Độ dành cho Việt Nam để tăng cường sức mạnh và năng lực quốc phòng, bao gồm nhiều hạng mục như: đóng tàu cho lực lượng thực thi pháp luật trên biển; xây dựng, thành lập Trung tâm Công nghệ thông tin và ngoại ngữ, tin học cho Bộ Quốc phòng Việt Nam; đào tạo thủy thủ tàu ngầm, đào tạo phi công điều khiển máy bay Su30, đào tạo, huấn luyện tác chiến trên các địa bàn phức tạp, huấn luyện lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình cho sỹ quan Việt Nam, sửa chữa và bảo trì tàu hải quân, tìm kiếm cứu nạn trên biển,v.v..

Trong tầm nhìn của Ấn Độ khi điều chỉnh chính sách đối ngoại ở Đông Á thì Biển Đông luôn là mắt xích quan trọng. Vấn đề Biển Đông được đề cập trực tiếp trong chính sách Hành động phía Đông, điều này cho thấy sự gia tăng can dự của Ấn Độ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược kép của Ấn Độ: vừa trở thành cường quốc nổi bật ở Đông Bắc Ấn Độ Dương, vừa đảm nhiệm vai trò chiến lược lớn hơn trong khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Sự gia tăng như vậy thể hiện rõ trên những quyết tâm và hành động sau:

Một là, Ấn Độ luôn khẳng định rõ lập trường nguyên tắc của mình về tự do hàng hải, an ninh hàng hải và giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông theo quy định của luật pháp quốc tế (Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982), phát triển một bộ quy tắc ứng xử và giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại và các biện pháp hòa bình.

Hai là, Ấn Độ vẫn kiên định, tiếp tục các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông mặc dù có những sự đe dọa, tranh chấp, lấn chiếm làm cho tình hình trên vùng biển này ngày càng căng thẳng. Hành động này ngoài bảo vệ lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông còn góp phần vào việc giúp Việt Nam củng cố chủ quyền quốc gia trên vùng biển này.

Ba là, Ấn Độ phản đối ý định của Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông, vì không chỉ ảnh hưởng đến các lợi ích thương mại và chiến lược của Ấn Độ mà còn vi phạm các nguyên tắc quốc tế về tự do hàng hải và hàng không.

Bốn là, Ấn Độ ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế về Biển Đông.

Năm là, Ấn Độ luôn coi Đông Nam Á là trung tâm, trong đó Việt Nam luôn là nhân tố quan trọng của khu vực này.

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ chính sách Hướng Đông thành Hành động phía Đông, tạo điều kiện cho Việt Nam có lợi thế quan trọng trong việc thực thi chính sách đối ngoại, “đa phương hóa”, “đa dạng hóa” của mình để phát triển đất nước, giúp Việt Nam “cân bằng chiến lược” trong quan hệ với các nước lớn, tăng sức đề kháng trong việc bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, an ninh chính trị, kinh tế, phát triển quan hệ nhiều mặt với các nước trong khu vực, đặc biệt là với các cường quốc khu vực và thế giới.

————————

Chú thích:

(1) Anirban Ganguly, Vijay Chauthaiwale, Uttam Kumar Sinha (chủ biên), The Modi Doctrine, New paradigms in India’s foreign policy, Wisdom Tree, India, tr.4.
(3), (4) Sđd.
(2) Sen S., Sino – Indian Relations in the context of India’s Look East Policy, The Thesis submitted of the Degree of Master of Social Sciences, Department of Political Science, National University of Singapore, 2006, tr.46.

Theo TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tags: , ,