Sự thật về dân tộc Do Thái: Do Thái Israel và Do Thái Khazaria

Khoảng 90% người trên thế giới tự xưng là Do Thái thực ra là người Khazar, hoặc như họ thích được gọi hơn, là người Do Thái Ashkenazi.

“Nhà Rothschild bảo họ là Do Thái, thực ra họ là dân Khazar. Nguyên quán của họ là Khazaria, một quốc gia kẹp giữa Hắc Hải và Lý Hải phần lớn ngày nay là Georgia. Họ tự nhận là Do Thái vì người Khazar theo chỉ thị của Vua theo tín ngưỡng Do Thái từ năm 740, nhưng dĩ nhiên họ không thể hoán chuyển các gene Mông Cổ Á Châu của họ thành các gene Do Thái.

Khoảng 90% người trên thế giới tự xưng là Do Thái thực ra là người Khazar, hoặc như họ thích được gọi hơn, là người Do Thái Ashkenazi. Những người này nói láo với thế giới rằng đất Israel là của họ vì quyền cố hương (birthright), trong khi thực tế quê hương đích thực của họ ở cách trên 800 dặm, mãi tận Georgia

The History of the House of Rothschild

.

Cũng như Vatican bây giờ, Israel vừa là quốc gia vừa là Giáo Hội, có bộ luật căn bản – giống như Hiến Pháp — là 10 điều răn của Chúa.

Chuyện kể:

Jacob (sau đổi tên là Israel) và Leah sinh được 12 người con, mỗi người là tù trưởng của một bộ lạc, có lãnh thổ riêng nhưng liên hiệp thành một quốc gia Israel – giống như Hoa Kỳ có 50 tiểu bang. Riêng bộ lạc giáo sĩ Levi phục vụ trong Đền Thánh, không có lãnh thổ riêng nhưng trà trộn với các bộ lạc khác. Các bộ lạc gồm có Judah, Issachar, Zebulun, Reuben, Simeon, Gad, Dan, Asher, Naphtali, Benjamin, Ephraim, Manasseh. Hai bộ lạc sau cùng là do con của Joseph.

Danh từ Jew dịch là Do Thái dùng để chỉ dân của bộ lạc Judah chứ không phải của quốc gia Israel nhưng vì Judah là một bộ lạc trong quốc gia Israel nên người trong bộ lạc Judah (Do Thái) cũng có thể coi như công dân của Israel, như người tiểu bang California được coi là người Hoa Kì. Sau triều đại Salomon (c. 971-1011 TK = trước Kitô) vương quốc Israel phân làm hai, vương quốc Judah gồm 2 bộ lạc (Judah và Benjamin) thủ đô Jerusalem ở miền nam và Nhà Joseph gồm 10 bộ lạc còn lại ở miền bắc vẫn giữ quốc hiệu là Israel đóng đô ở Samaria.

Trong khoảng từ năm 721 TK đến 718 TK, Israel bị vua Assyria là Shalmaneser xâm lăng. Dân Israel bị đưa đi đầy ở Assyria vùng duyên hải phía nam Biển Caspian và biệt tích luôn không còn bao giờ nghe nói đến nữa. Có sự trùng hợp là người ta tìm thấy xuất xứ của các dân tộc tây bắc Âu Châu, Celt và Scythia (Tàu dịch là Sai hay Saka) tại cùng vùng và cùng thời kỳ dân Israel bị đầy đến.

Khoảng năm 586TK, vương quốc Judah bị vua Nebuchadnezzar II (c 634–562 TK), nổi tiếng vì đã tạo ra vườn treo Babylon, xâm lăng và dân bị đầy đi Babylon, khi được hồi hương dưới thời đế quốc La Mã, quốc hiệu đổi ra theo tiếng Hi Lạp là Judea, được độc lập cho đến năm 63 TK, thành một tỉnh của đế quốc La Mã (6-41, Pontius Pilatus làm thái thú từ năm 26 đến 36, xử Đức Giê Su), đặt dưới quyền cai trị của Herod Agrippa (41-44), thành một tỉnh của La Mã (44-48), rồi của Herod Agrippa II (48-100), nổi loạn lần thứ nhất (66-70), đền Jerusalem bị phá hủy (70), thành một tỉnh của La Mã (từ 100 trở đi), nổi loạn lần thứ hai (115-117), lần thứ ba do Simon Bar Kokhba (132-135), hoàng đế Hadrian đổi tên Judea thành Syria Palaestina (135).

Cuộc phiêu lưu Do Thái (dân Judea, không phải Israel) khởi sự vài trăm năm sau, khi La Mã không thừa nhận thẩm quyền của Sanhedrin (tối cao pháp viện Do Thái ) và không cho người Do Thái cư ngụ tại Jerusalem nữa. Một số lớn định cư tại vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), còn lại tản mát quanh Địa Trung Hải, vùng duyên hải từ Hi Lạp đến Ai Cập (vùng trăng lưỡi liềm trù phú = Levant Fertile), Tiểu Á Tế Á, Ý và La Mã. Một số ít lang thang sang tận xứ Gaul (Pháp ngày nay), Tây Ban Nha và Bắc Phi Châu. Cho đến năm 212 hoàng đế La Mã Caracalla ban quốc tịch La Mã cho mọi người tự do, họ mới được hưởng quyền này. Sau khi nổi loạn, họ phải trả thuế thân cho đến năm 363 mới được hoàng đế cuối cùng của đế quốc La Mã Julian (355-363) miễn cho. Họ được tự do lập các hệ thống văn hóa và tôn giáo và tham gia vào các nghề nghiệp địa phương. Thời ấy đa số quần chúng mù chữ, nam giới Do Thái theo luật phải đọc được kinh Talmud nên phải đi học, do đó biết chữ nên lợi thế hơn dân địa phương trong doanh nghiệp, nhất là tại Lưỡng Hà, tp Baghdad, họ nắm hầu hết các hoạt động tài chánh cũng như sau này tại các đô thị Ashkenazi. Ở Palestine và Lưỡng Hà người Do Thái còn biết canh tác, nhưng tại các cộng đồng di tản (diaspora), vì không còn đất, họ quên nghề nông, chỉ chuyên về buôn bán, nhất là buôn tiền, nhờ liên lạc và di chuyển dễ dàng giữa các cộng đồng của họ.

Sang thế kỷ V những tộc Visigoth, Frank, Lombard, Vandal thuộc chủng Nhật Nhĩ Man xâm lăng miền tây đế quốc La Mã khiến đế quốc này yếu dần đi, người Do Thái tản sang vùng Cologne và Trier và vùng ngày nay là Pháp. Năm 629 Do Thái bị vua tộc Frank là Dagobert I (629-634) đuổi khỏi vương quốc Merovingian lại còn phải đối phó với ác cảm của Hội Thánh La Mã. Từ 380, khi Kitô giáo thành quốc giáo của La Mã và Constantinople, họ ngày càng bị kỳ thị và đối xử tàn nhẫn. Khoảng 800, Charlemagne bành trướng đế quốc Frank sang Ý, La Mã và Tây Âu, cho dân Do Thái được tự do buôn bán. Họ hầu như độc quyền cho vay lãi, vì Giáo Hội La Mã cấm giáo dân làm việc này.

Vì nhu cầu buôn bán, dân Do Thái lang bạt khắp nơi, pha giống với các dân bản địa, chịu ảnh hưởng chính trị, văn hóa, môi trường địa phương, nhưng nếu do một phụ nữ Do Thái sinh ra thì vẫn được coi là Do Thái dù là Do Thái lai. Họ được phân biệt thành các nhóm như Do Thái Ấn Độ, Do Thái Phi Châu, Do Thái Bene, Do Thái Cochin, Do Thái Bnei Menache, Do Thái Bene Ephraim, Italkim (Do Thái Ý), Bené Roma (Do Thái Ý), Romaniote (Do Thái Hy Lạp), Teimanim (Do Thái Yemen và Oman), Do Thái Tàu, Do Thái Kaifeng (Khai Phong, Tàu)… không thể kể xiết, nên được gom vào thành mấy loại chính: Sephardim (Hispanic/Iberia = Tây Ban Nha), Mizrahim (Đông phương gồm cả Bắc Phi, Cao Gia Sách, Trung Đông: Ai Cập, Iraq, Lebanon, Libya, Syria, Georgia, Kurd, Berber, Bảo… ) và mạnh nhất là Ashkenazim (Nhật Nhĩ Man = Đức cổ) của người Khazar.

Người Khazar (có nghĩa là lang thang) vốn là một dân tộc Thổ bán du mục hậu duệ của bộ lạc Ashina, xuất phát từ Mông Cổ đến tk VII lập ra một khán quốc (khaganate) gọi là Khazaria độc lập tại vùng Bắc Cao Gia Sách (Caucasus) dọc bờ biển Lý Hải (Caspian Sea), phồn thịnh từ năm 650 đến 1016 nhờ giao thương với người Tư Lạp Phu, Byzance (miền đông đế quốc La Mã, sau thành Constantinople), Alan (Bretagne), Magyar (Hung Gia Lợi). Họ có công chặn Ả Rập vào tk VIII, nếu không bây giờ cả Đông Âu đã theo Hồi giáo (*).

Đế quốc Đông La Mã gọi là đế quốc Byzantine có 20 triều đại từ năm 306 đến 1453. Triều đại thứ 7 là triều đại Heraclian (610-711) do tướng Heraclius (575-641) thành lập, hoàng đế cuối cùng là Justinian II, trị vì 685-695 rồi 705-711. Ông là con của hoàng đế Constantine IV (668-685) và hoàng hậu Anastasia. Ông cưới em gái Đại Hãn Busir Glavan của Khazaria, đổi tên bà thành Theodora.

Triều đại thứ 9 (717-802) gọi là triều đại Isaurian (717-802) do hoàng đế Leo III (685-741) còn gọi là Leo the Isaurian (Isauria là Syria ngày nay) thành lập, tháng 8.720 cho thái tử (718-775) tham chính. Thái tử sau thành hoàng đế Constantine V (741-775). Sau khi quân Khazar chiến thắng Ả Rập, để làm thân, Leo III cầu hôn cho thái tử lúc ấy mới 14 tuổi cưới công chúa Tzitzak con của đại hãn (khagan) Khazar của Bihar, xứ rộng nhất và đông dân nhất ở miền đông Ấn Độ có con sông Hằng chảy qua, gồm những xứ Đức Phật Thích Ca từng sinh sống như Anga, Videha, Magadha, Vaishali. Áo cưới của cô dâu sau thành thời trang cho nam tử Constantinople mang tên tzitzakion. Năm 732 Tzitzak đổi tên là Irene (nghĩa là Hòa Bình). Con của họ sinh năm 750 lên ngôi hoàng đế hiệu là Leo IV (775-780) biệt hiệu là Leo người Khazar.

Như vậy trễ nhất là vào tk VIII dân tộc Khazar đã có chứng tích trong lịch sử. Nguyên thủy người Khazar theo Shamanism Tengri (**), sau vì bị đế quốc Byzantine ép theo Công giáo và các vương quốc Ả Rập ép theo Hồi giáo, đến tk VIII hay IX, để tìm một lối thoát cho cảnh một cổ đôi tròng này, họ chọn một giải pháp hay nhất là không theo cả Công giáo lẫn Hồi giáo mà theo Do Thái giáo, lấy nó làm quốc giáo.

Giữa 965 và 969 họ bị nhiều dân tộc khác như Rus, Kipchak và cuối cùng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan: 1162-1227) tiêu diệt gần hết, nay không còn là một chủng tộc có văn hóa riêng biệt nữa.

Số còn sót chạy lên Ba Lan qua Ukraine thành cái nôi của Do Thái Tây phương, một tạp chủng Mông, Hung, Thổ (Duy Ngô Nhĩ và Magyar) tự nhận là Do Thái Ashkenazi nghĩa là Do Thái Nhật Nhĩ Man (Ashkanaz = germanic), định cư dọc sông Rhine từ Alsace ngược lên. Từ ngữ Ashkenazi dẫn xuất từ khóm chữ Hi Bá Lai “nusach Ashkenz” nghĩa là lễ chế cổ truyền (nusach) của người Do Thái Ashkenazi ghi trong sách kinh (siddur) của họ. Vào đầu tk XII, họ thành những gia đình thế lực nhất tại Ý, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Hòa Lan, Hy Lạp. Từ tk XI đến tk XIX một số khác đến sinh sống tại Tây Âu, Hung Gia Lợi, Ba Lan, Belarus, Lithuania, Ukraine và Nga. Tại Nga cộng đồng Khazar chiếm một vùng rộng ngang với Thụy Sĩ ở Birobidjan, phía đông Tây Bá Lợi Á, bao bọc bởi con sông Ô Hứa A Mẫu Hà (Amur Darya), Tàu và Mông Cổ, năm 1934 được Liên Bang Xô Viết công nhận là Khu Tự Trị (Okrug) Birobidjan Yevrei, nói tiếng Yiddish, một thứ Đức ngữ pha tiếng Hi Bá Lai, do đó tính chất Do Thái Ashkenazi gọi là Yiddishkeit. Dĩ nhiên họ nói cả tiếng Nga.

Một số khác chạy sang Tây Ban Nha định cư đến tk XV bị trục xuất và tản mát sinh sống tại các quốc gia ven bờ Địa Trung Hải, vùng Ba Nhĩ Cán (Balkan) và Tây Âu. Họ nói thứ tiếng Tây Ban Nha lai Hi Bá Lai gọi là Ladino, vẩn giữ phong tục tập quán và nghi thức tôn giáo của họ. Một ngành Khazar di cư sang Tàu và Nhật.

Trong Giáo Hội La Mã, các Giáo hoàng Nhà Medici, Giovanni di Lorenzo de Medici (Leo X: 1513-1521) và Giulio di Medici, (Clement VII: 1523-1534) là Khazar. Có nguồn tin cho rắng các Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) và John Paul II cũng là Khazar nhưng không được xác định.

Riazat Butt công bố trên tạp chí Metronews ngày 12.2.2006 bài “The Pope was Jewish says historian” (Sử gia bảo Giáo hoàng là Do Thái). Sử gia là Yaakov Wise. Giáo hoàng là John Paul II, tên thật là Karol Josez Wojtyla. Để lập luận như vậy, Wise căn cứ vào tên của thân mẫu (Emilia Kaczorowski), bà ngoại (Maria Anna Scholz) và bà cố (Zuzanna) của Giáo hoàng. Tất cả các tên này đều là tên thông dụng của người Do Thái. Ông còn đưa hình của thân mẫu Giáo hoàng cho nhiều người xem. Ai cũng bảo là “có vẻ” Do Thái. Dĩ nhiên ông không thể và không dám khẳng định Giáo hoàng là Do Thái, chỉ nêu lên những trùng hợp đưa đến kết luận này. Giáo hoàng Paul VI (1963-1978) tên thật là Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini (1897-1978) cũng bị cho là Do Thái marrano, vì Montini là một họ Do Thái lâu đời. Tất cả chỉ là những luận điệu không có căn bản vững chắc.

Sherry Shriner, tác giả bài “The Serpent Bloodline: Edomite/Khazar Jews and Sons of Cain” đề ngày 20.5.2009, dựa trên Kinh Thánh, phân biệt các thứ Do Thái (Jew) chân giả. Xin trích vài đoạn:

Ngày nay có nhiều vụ lừa dối trong các nhà thờ và một trong số trọng yếu hơn cả là Chủ Nghĩa Phục Hồi Do Thái (Zionism) là của Chúa, Zionism nghĩa là Israel, và chúng ta bảo vệ Israel vì ai ban phúc lành cho Israel sẽ được Chúa ban phúc lành, và ai nguyền rủa Israel sẽ bị Chúa nguyền rủa… Nhưng ai là Israel? Phải chăng là Zionism ngày nay?… Zionism thành một chương trình hành động của Đắc Quang (hội kín Illuminati) Bolshevik để chiếm lấy vùng của Israel cho kẻ Phản Kitô (Antichrist).

Thực ra chương trình hành động của chúng là cai trị thế giới từ Jerusalem… Chương trình hành động bắt đầu từ khi Do Thái Bolshevik Edomite tài trợ cho Hitler nổi lên cầm quyền ở Đức… Ai đàng sau holocaust? Đó là Do Thái Edomite. Tại vì chúng muốn loại người Do Thái tin Torah và thiết lập một quốc gia Do Thái Talmud kiểu Babylon ở Israel. Và đấy là cái chúng ta có ngày nay với Zionism… Do Thái Edomite không phải là Do Thái huyết thống chân chính… [xin bỏ đoạn kết tội Nhà Bush từ Prescott đến 2 tổng thống Bush, Giáo hoàng trắng John Paul II và Gh đen Hans Van Kolvenbach quyền uy bậc nhất].

Đắc Quang (Illuminati) ở trên đầu hai chủng tộc là Do Thái Edomite và Các Con của Cain… Do Thái giả được gọi là Do Thái thật. Do Thái thật không biết cả đến họ là ai… Do Thái Chính Thống giáo, Cải giáo và thuộc về Mê-si (Messianic) chối bỏ những Do Thái điều hành Zionism tại Israel ngày nay. Không những họ là Do Thái Edomite mà còn được biết là Do Thái Khazar. Năm 692 vương quốc Khazar được thành lập. Họ là những người nhận Do Thái giáo là tôn giáo chính thức của họ, vì những Do Thái thực sống chung với họ và truyền giáo cho họ. Từ đó họ làm như Do Thái thực với quyền nhận Palestine làm quê hương…

Nếu các Edomite là những người đang cư ngụ tại Israel và tự nhận là Do Thái và không phải là Do Thái thì Do Thái thật là ai và ở đâu? Tản mát. Mỹ LÀ Israel. Chúng ta là những bộ lạc Israel tản mát khắp nước này cùng với các nước da trắng khác…

Nếu bạn nhìn vào nhiều bộ lạc Israel tản mát ngày nay, họ gồm Đức, Pháp, Anh, Mỹ và những người khác… những chủng tộc da trắng trên thế giới… bộ lạc Manasseh đa số ở Mỹ, Ephraim ở Anh, Reuben ở Pháp, Dan ở Hi Lạp, vv…

Esau bán quyền huynh trưởng (birthright) cho Jacob lấy một bát cháo đậu đỏ (Edom lintel beans)… Họ được gọi là Esomite vì mầu đỏ (edom) của bát cháo. Esau cũng rất đỏ và nhiều râu tóc… Esau lấy phụ nữ Hittite vì tham quyền và của cải. Dòng giống ấy vẫn thế cho đến nay. Họ kiểm soát tiền bạc khắp thế giới… Esau không bao giờ giết được Jacob nhưng cho đến nay vẫn có sứ mệnh giết Jacob. Hậu duệ của Jacob được coi là dân Israel tin vào Yahweh và là giáo đồ Kitô giáo ngày nay. Hậu duệ của Esau được coi là Đỏ, là màu tượng trưng cho Cộng Sản chủ nghĩa… Xã Hội chủ nghĩa, Quốc Xã chủ nghĩa, Nhân Bản chủ nghĩa, Tự Do chủ nghĩa…

Andrew Hitchcock đồng hóa Do Thái Khazar với Do Thái Ashkenazi:

Nhà Rothschild bảo họ là Do Thái, thực ra họ là Khazar. Nguyên quán của họ là Khazaria, một quốc gia kẹp giữa Hắc Hải và Lý Hải phần lớn ngày nay là Georgia. Họ tự nhận là Do Thái vì người Khazar theo chỉ thị của Vua theo tín ngưỡng Do Thái từ năm 740, nhưng dĩ nhiên họ không thể hoán chuyển các gene Mông Cổ Á Châu của họ thành các gene Do Thái.

Khoảng 90% người trên thế giới tự xưng là Do Thái thực ra là Khazar, hoặc như họ thích được gọi hơn, là người Do Thái Ashkenazi. Những người này nói láo với thế giới rằng đất Israel là của họ vì quyền cố hương (birthright), trong khi thực tế quê hương đích thực của họ ở cách trên 800 dặm, mãi tận Georgia (The History of the House of Rothschild).

Vào tk XI, Do Thái Ashkanezi chỉ có 3% dân số Do Thái, vào năm 1931 họ chiếm đến 92%, sau đại nạn Holocaust còn 80%. Đa số các cộng đồng Do Thái Âu Châu trừ vùng Địa Trung Hải là Ashkenazi. Do Thái di cư từ Châu Âu sang các châu khác cũng như cư ngụ tại HK đa số là Ashkenazi. Tại HK có khoảng 5.3 triệu Do Thái. Họ chiếm 27% giải Nobel Khoa Học và 25 giải ACM Turing Awards (tương đương Nobel về khoa học computer).

Hiện có nhiều nghiên cứu về chỉ số thông minh (IQ) của người Do Thái để tìm hiểu nguyên nhân của sự thông minh đặc biệt của họ. Gregory Cochran, Jason Hardy và Henry Harpening thuộc đại học Utah lập luận rằng vì trong thời Trung Cổ từ năm 800 đến 1700 Do Thái Âu Châu chỉ hoạt động tài chánh, mậu dịch nên truyền các gen (đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản của di truyền) thông minh cho con cháu. Mặt khác, các gen này cũng là nguyên nhân của các bệnh hay thấy trong các Do Thái Ashkenazi như Tay-Sachs, bệnh Canavan, bệnh Gaucher, bệnh Niemann-Pick, Mucolipidosis loại IV (”Natural History of Ashkenazi Intelligence”, Journal of Biosocial Science 38 (5), 2006, trang 659-693). Jon Entine khảo sát những nghiên cứu trên kết luận rằng IQ của Do Thái Ashkenazi cao hơn mức trung bình (Abraham’s Children: Race, Identity and the DNA of the Chosen People. 2007).

Dĩ nhiên, những vấn đề như trên đưa đến những cuộc tranh luận bất tận. Dù sao, không cần dẫn chứng khoa học, ít ai phủ nhận trí tuệ Do Thái nhưng trí càng cao mà thiếu đức thì càng hiểm độc (***). Vì thế, nói chung, Do Thái ít gây được cảm tình.

Như trên đã nói, vương quốc Israel có 12 bộ lạc. Trong cuốn “Bộ lạc thứ 13″ (The Thirteenth Tribe), Arthur Koestler cho rằng Do Thái Ashkenazi là bộ lạc thứ 13, nghĩa là Do Thái giả. Ông lập luận rằng phân biệt như thế để phong trào bài Do Thái ở Âu Châu đã từng khiến đồng bào của ông phải chịu cơ man đau khổ, không còn căn cứ nữa. Nhưng phân biệt như thế cũng lật tẩy Zionism và việc lập quốc của Israel trên đất Palestine là vụ lừa bịp vĩ đại nhất tk XX. Thế lực của Zionism cực mạnh nên có tin đồn là vợ chồng Koestler bị thủ tiêu vì đã tiết lộ bí mật này.

Arthur Koestler sinh ngày 5.9.1905 tại Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, tự hào là Do Thái Ashkenazi. Ông là tác giả cuốn “Darkness at Noon” (1940) – có lẽ Vũ Thư Hiên đã “mượn” cái tựa đề này để đề tên cho tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày” (1997) – và cuốn “The Thirteenth Tribe” dày 255 trang (Random House, 1976) mà có người cho là nguyên nhân cái chết của ông và vợ Cynthia Jefferies sinh năm 1965, tuy rằng ông bà có thư tuyệt mệnh để lại. Thi thể ông bà được tìm thấy tại nhà riêng ở Luân Đôn ngày 1.3.1930.

Ngay tại Israel Do Thái Sephardic và Do Thái Ashkenazi cũng kỳ thị nhau nhưng họ được chính quyền khuyến khích hòa đồng với nhau. Một Do Thái Ashkenazi, Jack Bernstein, thuật lại kinh nghiệm của ông: “Một hôm tôi vào một tiêm cà phê ở Tel Aviv đầy khách, ngồi xuống cái ghế duy nhất còn trống. Cùng bàn có năm Do Thái Sephardim từ Morocco. Biết tôi đang học tiếng Hi Bá Lai, họ đang giúp tôi học thì một cảnh sát viên Do Thái mắt xanh kiểu Nazi bước đến, ra lệnh cho tôi, ‘Đi khỏi những Kooshim này’ (Kooshim tiếng Hi Bá Lai là ‘mọi đen’)” (Life of an American Jew in racist marxist Israel, trang 39).

————————————

Chú thích:

(*) Xin xem thêm bài “The Jews of Khazaria” của Kevin Alan Brook.

(**) Tengri Shamanism là một thứ đạo của dân Hung Nô, Mông cổ, Thổ, Hung, Bảo. Tengri có nghĩa là trời (sky), Shaman dịch là vu hích (nam) hay nữ vu (nữ). Shamanism tạm dịch là Khiêu Thần đạo hay Khiêu Thần giáo.

(***) Xin đan cử một thí dụ. Theo John S. Torell, năm 1767 vua Tây Ban Nha Carl III ra chiếu chỉ đuổi Dòng Tên ra khỏi các thuộc địa Tây Ban Nha sau khi nhiều tin tức về các hành vi dã man của Dòng Tên tại nơi bây giờ là Paraguay, Nam Mỹ làm phẫn nộ dư luận Âu Châu. Tại đây từ năm 1609 các tu sĩ Dòng Tên (nhiều người là Do Thái ẩn hình, crypto-Jews) từ Ý, Anh, Đức đến dùng lính Âu Châu lập ra 30 trại tập trung gọi là “reducciones” nhốt hơn 150,000 người Da Đỏ Guarani. Đầu tiên, các cha lập lễ hội dụ họ đến nghe nhạc, nhẩy múa, ăn uống rồi quây và xích họ lại không cho ra nữa. Từ đó cả nam và nữ họ phải chịu cảnh nô lệ cực kỳ hà khắc, bị giết hại, hiếp dâm, lao động cật lực theo chỉ tiêu, một số được mua chuộc để làm “ăng ten”. Ai bị chúng tố cáo liền bị đem ra xử trước toàn trại, phải xin ăn năn hối cải, hôn tay và cám ơn kẻ hành quyết. Các chuyên viên tu sĩ Đòng Tên được giao việc tẩy não họ để họ mất hết khả năng suy nghĩ. Nhiều thế hệ sinh ra trong trại và coi như đời sống ở đấy là bình thường và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho những kẻ hành hạ họ (July 1999 Newsletter, European-American Evangelistic Crusades, Inc.).

Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ 

Tags: ,