Quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ sau chuyến thăm của tàu sân bay USS Carl Vinson

Việc một tàu sân bay Mỹ lần đầu cập cảng Việt Nam sau hơn bốn thập kỷ có ý nghĩa quan trọng, tuy đây chỉ là dấu hiệu mới nhất cho một xu hướng rộng hơn trong quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ ngày một nồng ấm.

Bài viết của Tiến sĩ Jonathan T. Chow, giảng viên ở Khoa Hành chính Công và Chính phủ tại Trường Đại học Macau. Bài thể hiện quan điểm và ý kiến riêng của tác giả.

Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, Mỹ và Việt Nam đã cải thiện quan hệ ngoại giao, chính trị và quốc phòng.

Dưới chính sách “tái cân bằng sang châu Á” của chính quyền Obama, Hoa Kỳ và Việt Nam ký một hiệp định đối tác toàn diện năm 2013. Tháng 05/2016, chính quyền Obama dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam. Cho đến thời điểm chính quyền Trump rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hồi năm ngoái, Mỹ và Việt Nam đều cam kết theo đuổi TPP như một cách gắn kết hai nền kinh tế chặt chẽ hơn.

Từ 2010, Hải quân Mỹ và Hải quân Việt Nam đã thực hiện các đợt hoạt động hải quân hàng năm, tập trung vào các kỹ năng phi tác chiến như cứu hộ, an ninh hàng hải, và tập huấn Quy tắc cho Các cuộc đụng độ Trên biển Không định trước.

Các tàu hải quân Mỹ cũng từng cập cảng của Việt Nam từ khi tàu khu trục Mỹ USS Vandegrift tới Thành phố Hồ Chí Minh hồi tháng 11/2003 – chuyến thăm đầu tiên của một tàu hải quân Mỹ tới Việt Nam kể từ khi Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt.

Sự kiện này không nhằm chuyển tải một thông điệp về sức mạnh quân sự Mỹ, mà quan trọng hơn, là nhằm trấn an Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác rằng Hoa Kỳ vẫn có mặt ở khu vực này.

Tổng thống Donald Trump gửi một thông điệp lẫn lộn tới các nước châu Á về cam kết của Hoa Kỳ cho an ninh khu vực và hợp tác kinh tế. Trong ngày đầu nhậm chức, ông ký lệnh rút nước Mỹ ra khỏi TPP.

Mặc dù đây là một hiệp định thương mại, chính quyền Obama từng coi TPP là một cách Mỹ thể hiện cam kết lâu dài cho thương mại và hợp tác an ninh với các nước dọc Vành đai Thái Bình Dương. Việt Nam rất thất vọng khi Mỹ rút khỏi TPP, đặc biệt khi Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của nước này. Chuyến thăm của tàu USS Carl Vinson cho thấy mặc dù có những thay đổi về chính sách, quan hệ an ninh giữa Mỹ và Việt Nam đang tiếp tục trưởng thành.

Lẽ dĩ nhiên, chuyến thăm của tàu Carl Vinson còn có ý nghĩa tượng trưng đối với tranh chấp lãnh thổ đang diễn ra giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông. Philippines, quốc gia Đông Nam Á khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đã mạnh mẽ khi kiện Trung Quốc ra tòa dưới thời Tổng thống Benigno Aquino III.

Năm 2016, Việt Nam được sự ủng hộ lớn cho tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông khi Tòa Trọng tài Thường trực ra phán quyết ủng hộ Philippines đối với “đường chín đoạn” của Trung Quốc.

Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Rodrigo Duterte lên cầm quyền ở Philippines tháng 06/2016, ông đã tìm cách ve vãn đầu tư và thương mại của Trung Quốc, mở các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc về Biển Đông, gây đồn đoán về khả năng hai bên cùng thăm dò dầu khí hơn là thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài.

Hôm 1-3, Philippines tuyên bố nước này đang đàm phán với một công ty nhà nước của Trung Quốc về khả năng cùng thăm dò và khai thác nhiên liệu ở Biển Đông. Tổng thống Duterte thậm chí còn nói về vụ hợp tác tiềm năng này giống như “quyền đồng sở hữu” của vùng lãnh thổ tranh chấp.

Mặc dù hiện chưa rõ thương vụ này có thành hiện thực không, giọng điệu mềm mỏng hơn của Philippines đối với Trung Quốc đã cản đà Việt Nam phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Vì vậy, việc tàu sân bay Mỹ cập cảng Việt Nam sẽ nhiều khả năng được Hà Nội chào đón như một dấu hiệu yên tâm rằng Mỹ vẫn cam kết đảm bảo tự do đi lại trên Biển Đông.

Cuối cùng, tôi cảnh báo các bạn đừng nhìn sự kiện này đơn thuần qua lăng kính của sự cạnh tranh Trung Quốc – Mỹ hay Trung Quốc – Việt Nam. Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục có tranh chấp lãnh thổ, Việt Nam nhập nhiều hàng hóa của Trung Quốc hơn từ bất cứ quốc gia nào khác và hai nước vẫn tiếp tục hợp tác trong một loạt các lĩnh vực.

Điều mà Việt Nam đang cố gắng thực hiện là đa dạng hóa quan hệ để không quá phụ thuộc vào bất kỳ nước nào. Vì thế, chúng ta thấy Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong khối ASEAN, thực hiện vai trò chủ tịch hiệp hội này một cách ấn tượng năm ngoái. Chủ tịch Trần Đại Quang đang thăm Ấn Độ, tiếp theo chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi hồi 2016 và tìm cách thắt chặt quan hệ kinh tế và quốc phòng.

Chúng ta cũng đã thấy Việt Nam dùng Cảng Quốc tế Cam Ranh như một cách chào đón và bảo dưỡng tàu hải quân từ nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật và Pháp. Điều đáng chú ý là mặc dù chuyến thăm của USS Carl Vinson có ý nghĩa lớn, Việt Nam chỉ cho cho phép các tàu hàng hải nước ngoài vào Việt Nam mỗi năm một lần. Ngoại lệ duy nhất là Nga, với tàu của nước này được phép vào Vịnh Cam Ranh nhiều lần mỗi năm nếu báo trước, theo một thỏa thuận ký hồi 2014.

Điều này thực ra đã gây quan ngại cho Washington khi có tiết lộ rằng các máy bay ném bom Nga bay gần đảo Guam đã được tiếp nhiên liệu từ các tàu chở dầu đậu ở Vịnh Cam Ranh. Mặc dù Mỹ muốn cho các tàu hải quân của mình được vào Vịnh Cam Ranh nhiều hơn, Việt Nam vẫn lưỡng lự.

Cho tàu hải quân Mỹ có đặc quyền giống các tàu hải quân Nga ở Vịnh Cam Ranh [trong tương lai] sẽ là một dấu hiệu quan trọng chứng tỏ sự trưởng thành của quan hệ Việt – Mỹ.

Theo BBC

Tags: