Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

Nhìn lại tình hình Biển Đông, có thể thấy ranh giới giữa các hành vi “giới hạn” và “vượt giới hạn” ngày càng mờ nhạt. Hiện nay, không tồn tại một bộ quy tắc hay cơ chế pháp lý cụ thể nào quy định rõ những hành động nào được phép, hay đâu là dấu hiệu của việc gia tăng căng thẳng. 

Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

Những vụ va chạm và loạt hành động mang tính cưỡng ép trên Biển Đông trong giai đoạn 2024 – 2025 vừa qua không phải là các sự kiện riêng lẻ, mà phản ánh một quá trình leo thang có chủ đích và mang tính hệ thống. Trong quá trình đó, các hành động như phun vòi rồng, áp sát và va chạm được lặp lại với tần suất cao, càng lúc càng trở nên thường xuyên hơn, đến mức có nguy cơ trở thành hành vi quen thuộc, được chấp nhận một cách mặc nhiên. Hệ quả là các cơ chế kiểm soát căng thẳng dựa trên sự tỉnh táo và đối thoại giữa các bên dần có khoảng cách rộng hơn và ngày càng trở nên bị suy yếu, chính điều này sẽ làm tăng nguy cơ xung đột ngoài ý muốn trong khu vực.

Tương tự như nhiều cuộc xung đột trong lịch sử và hiện tại, khi các cơ chế kiểm soát căng thẳng trở nên chai lì và các kênh đối thoại mất hiệu lực, những hành động khiêu khích lặp lại dễ bị xem là “bình thường mới”, cho đến khi chúng vượt ngưỡng chịu đựng và kích hoạt xung đột thực sự. Minh chứng rõ nét là cuộc chiến Nga – Ukraine năm 2022, khi vốn được báo trước bằng hàng loạt cảnh báo ngoại giao và va chạm ở khu vực Donbass nhưng không bên nào còn thực sự tin vào hiệu quả của đối thoại, kết quả là dẫn tới cuộc chiến toàn diện[1]. Trong quá khứ, Chiến tranh Balkan thập niên 1990 cũng cũng cho thấy một quy luật tương tự khi những mâu thuẫn sắc tộc và chính trị âm ỉ bị cộng đồng quốc tế xem nhẹ trong giai đoạn đầu, khiến cơ chế đối thoại khu vực trở nên hình thức và khi các biện pháp ngoại giao không còn khả năng kiểm soát tình hình, bạo lực đã bùng phát và nhanh chóng lan rộng thành xung đột đẫm máu[2]. Hay như cuộc chiến biên giới Trung – Ấn năm 2020 tại Thung lũng Galwan, là lời cảnh tỉnh rõ ràng về giới hạn của cái gọi là “căng thẳng có kiểm soát”, nhiều vụ va chạm nhỏ không được xử lý triệt để đã tích tụ thành điểm nổ, dẫn tới đụng độ đẫm máu lần đầu tiên sau hơn 45 năm và đẩy quan hệ hai nước rơi vào tình trạng đối đầu chiến lược kéo dài. Những trường hợp này cho thấy, sự bào mòn của cơ chế đối thoại và tâm lý quen thuộc với căng thẳng chính là mầm mống khiến xung đột bất ngờ trở thành hiện thực.

Nhìn lại tình hình Biển Đông, có thể thấy ranh giới giữa các hành vi “giới hạn” và “vượt giới hạn” ngày càng mờ nhạt. Hiện nay, không tồn tại một bộ quy tắc hay cơ chế pháp lý cụ thể nào quy định rõ những hành động nào được phép, hay đâu là dấu hiệu của việc gia tăng căng thẳng. Chính sự thiếu vắng chuẩn mực chung này khiến các bên tham gia có cách diễn giải, định nghĩa và đánh giá khác nhau về cùng một sự kiện, từ đó làm cho bối cảnh khu vực thêm phức tạp, các phản ứng thiếu nhất quán và tiềm ẩn nguy cơ hành động ngoài khuôn khổ nguyên tắc.

Chuỗi căng thẳng ở Biển Đông, xét từ tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines, có lẽ là minh chứng rõ nét nhất cho xu hướng leo thang hiện nay. Điểm khởi đầu có thể tính từ cuộc đụng độ tại Second Thomas Shoal/Bãi Cỏ Mây ngày 17/6/2024, khi hoạt động tiếp tế cho tàu BRP Sierra Madre – một con tàu chiến cũ được Manila cố ý cho mắc cạn từ năm 1999 nhằm duy trì hiện diện quân sự, bị lực lượng Trung Quốc can thiệp, dẫn đến thương tích cho binh sĩ Philippines[3]. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi các hành vi cưỡng chế đã vượt khỏi mô thức cảnh báo thông thường và gây tổn hại thể chất cho con người, báo hiệu an ninh đã vượt khỏi khuôn khổ răn đe mang tính biểu tượng và đã trượt khỏi giới hạn kiềm chế ban đầu. Tiếp đó, hàng loạt vụ việc trong năm 2024 giữa lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc và Philippines tại Sabina Shoal/Bãi Cỏ Rong[4] và Scarborough Shoal/Bãi cạn Hoàng Nham[5] bao gồm các cáo buộc đâm tàu, vây ép, truy đuổi và sử dụng vòi rồng cho thấy mô thức cưỡng chế này không chỉ được lặp lại, mà còn được tăng cường cả về tần suất lẫn cường độ. Việc các kịch bản đối đầu diễn ra với chu kỳ ngắn và mức độ ngày càng quyết liệt đã bộc lộ sự mong manh của các cơ chế quản trị xung đột hiện có, đồng thời phản ánh một thực tế đáng lo ngại là vùng xám Biển Đông đang dần chuyển hóa thành vùng rủi ro va chạm thực địa, nơi các biện pháp ngoại giao và kiểm soát khủng hoảng tỏ ra thiếu hiệu lực.

Bước sang năm 2025, tính hệ thống của hiện tượng này ngày càng bộc lộ rõ, khi các vụ theo dõi và cảnh cáo tàu Mỹ gần Bãi Cạn Scarborough cho thấy hành vi cưỡng chế của Trung Quốc không chỉ hướng vào Manila, mà còn nhằm thách thức trực tiếp sự hiện diện của Washington, qua đó như một phép thử đối với cam kết lâu dài của Mỹ với các đồng minh trong khu vực.

Việc một tàu hải cảnh Trung Quốc bị cho là theo dõi tàu khu trục USS Higgins minh chứng cho xu hướng này[6], cho thấy sự dịch chuyển dần của hoạt động cưỡng chế từ cấp độ khu vực sang tính chất đối đầu mang yếu tố chiến lược. Đáng chú ý hơn, vụ va chạm ngày 11/8/2025 giữa tàu hải cảnh Trung Quốc CCG 3104 và tàu khu trục Quế Lâm số hiệu 164, lớp Type 052D của hải quân PLA trong lúc truy đuổi tàu Philippines quanh Scarborough[7], đã làm nổi bật mức độ rủi ro vật lý ngày càng gia tăng trong môi trường vùng xám. Sự kiện này không chỉ cho thấy nguy cơ mất kiểm soát chiến thuật khi các lực lượng cận chính quy và quân sự hoạt động quá gần nhau, mà còn phơi bày những sai lệch trong phối hợp tác chiến nội bộ, yếu tố mà có thể dẫn đến thương vong hoặc leo thang bất ngờ ngoài ý muốn. Chuỗi diễn biến này phản ánh một chuyển biến cấu trúc trong cách thức cưỡng chế của Trung Quốc từ chiến thuật vùng xám dựa trên hải cảnh và dân quân biển từng bước được nâng cấp bằng yếu tố hải quân cứng rắn hơn. Sự thay đổi ấy làm gia tăng nguy cơ tai nạn, tính toán sai lầm và leo thang căng thẳng, đồng thời báo hiệu xu hướng xóa nhòa ranh giới giữa cưỡng chế phi vũ trang và răn đe quân sự, một đặc trưng mới trong môi trường an ninh biển Đông năm 2025.

Nhận diện rủi ro từ những chuỗi “sự cố” trên đòi hỏi cần phải nhìn vào các cơ chế vận hành song song. Khi các hành vi vượt quá giới hạn được lặp lại mà không dẫn tới sửa đổi chiến lược đáng kể từ phía bị gây áp lực, bên gây áp lực sẽ đánh giá thấp chi phí rủi ro và mở rộng hành vi. Khi đó, những hoạt động vượt giới hạn trở thành phương thức chính sách, và biến hành vi càng ngày càng nới rộng. Thêm vào đó, bất kỳ va chạm vật lý nào dù vô ý đều có thể nhanh chóng tạo ra thương vong, từ đó kích hoạt phản ứng chính trị mạnh, đòi hỏi trả lời quân sự hoặc ngoại giao khó thỏa hiệp. Một điểm đặc biệt khác cần nhìn nhận, đó là yếu tố ràng buộc của các liên minh. Nhất là cái tên Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ – Philippines, vốn có những điều khoản cam kết mạnh mẽ về an ninh và những hứa hẹn vũ khí cho Manila cũng đồng thời đặt Washington vào vị thế dễ bị kéo vào một cuộc đối đầu nếu binh sĩ Philippines thiệt mạng hoặc tài sản quân sự của Manila bị tấn công.

Trong logic phân tích, nếu các yếu tố trên cùng tồn tại đồng thời, chuẩn hóa cưỡng chế, rủi ro tai nạn trong đội hình và ràng buộc đồng minh thì xác suất một va chạm nhỏ tiến triển thành một khủng hoảng lớn tăng lên đáng kể, chưa nói đến việc ý đồ tạo cớ xung đột để tiến hành các hoạt động vũ trang phục vụ mục đích của các bên là không loại trừ. Trong lịch sử không ít các cuộc chiến, được tính toán bằng cách chủ động tạo lý do để thực hiện mục tiêu.

Chưa kể đến việc, bối cảnh xung đột gia tăng trên thế giới hiện nay hoàn toàn có thể trở thành chất xúc tác để kéo theo những xung đột khác gia tăng, đó là tính hiệu ứng dây chuyền của các sự kiện và các chuỗi liên quan có hệ thống khác.

Từ góc độ chính sách, nếu mục tiêu là ngăn chiến tranh, hành xử chiến lược phải song hành giữa củng cố năng lực phòng vệ và thiết lập cơ chế quản trị khủng hoảng có hiệu lực thực tế. Thiếu vắng các kênh nóng đáng tin cậy, hay quy tắc ứng xử trên biển rõ ràng, cùng với các cơ chế đa phương để giảm leo thang, thì chuỗi va chạm sẽ nối tiếp nhau, không chỉ từ 2024 sang 2025 mà sẽ còn tiếp nữa, cứ thể sẽ được tiếp tục tích lũy rủi ro cho đến khi một sự cố bất ngờ làm bật nút dẫn đến xung đột rộng hơn. Biển Đông hiện nay chính các hành vi cưỡng chế lặp lại, sự thay đổi dạng lực lượng trên hiện trường và các ràng buộc an ninh quốc tế đang biến những va chạm cục bộ thành nguy cơ có thể phát triển thành rủi ro chiến lược.

Mục tiêu chiến lược của Mỹ trên Biển đông năm 2025?

Kể từ khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng đầu năm 2025, chính sách của Washington đối với Biển Đông thể hiện sự pha trộn giữa răn đe quân sự sớm, tái định vị cấu trúc đồng minh và gia tăng áp lực pháp lý, tâm lý đối với Trung Quốc. Trong nhiệm kỳ đầu, Trump đã giới thiệu Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, coi Biển Đông là khu vực cốt lõi và mô tả các hoạt động của Trung Quốc tại đây là một hình thức bành trướng địa chiến lược theo kiểu “cắt lát salami”, đồng thời coi các yêu sách của Trung Quốc là một thách thức trực tiếp. Thì ở chính quyền Trump 2.0 này, mặc dù vẫn mang tính kiềm chế cân bằng chiến lược, nhưng cách tiếp cận mạnh mẽ và thẳng thắn hơn khiến Biển Đông trở thành một điểm nóng tiềm tàng trong cạnh tranh quyền lực Mỹ – Trung, khi ranh giới giữa răn đe và khiêu khích trở nên mờ nhạt.

Thứ nhất, Mỹ gia tăng đáng kể hiện diện quân sự trên biển theo hướng chủ động hơn, sự quay trở lại này được công nhận là mạnh mẽ và quyết liệt hơn so với “chiến lược hàng hải của Trump”[8] trong nhiệm kỳ trước. Trong nửa đầu năm 2025, Mỹ tiếp tục gia tăng hoạt động tuần tra tự do hàng hải (FONOPs) tại Biển Đông, thể hiện xu hướng chủ động hơn trong việc duy trì hiện diện và thách thức các yêu sách hàng hải quá mức của Trung Quốc. Hoạt động FONOPs đặc biệt được tăng cường xung quanh các khu vực tranh chấp nóng, bao gồm Scarborough Shoal, nơi các vụ va chạm giữa lực lượng Trung Quốc và Philippines làm nổi bật rủi ro leo thang trong khu vực[9]. Những chuyến tuần tra này, dù không được xác nhận liên quan trực tiếp đến từng sự kiện cụ thể, vẫn được nhìn nhận là một biểu hiện của cam kết Mỹ duy trì hiện diện và hỗ trợ đồng minh trong bối cảnh căng thẳng gia tăng. Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra hiệu ứng tâm lý ngược khi Bắc Kinh coi đó là hành động hưởng ứng có tính phối hợp, qua đó đẩy căng thẳng lên mức nguy hiểm mới.

Trong khuôn khổ hợp tác quân sự, các cuộc tập trận chung Mỹ – Philippines, Australia – Philippines và tam giác Mỹ – Nhật – Philippines tại vùng biển phía tây đảo Luzon đã được mở rộng đáng kể, các cuộc tập trận chung như Balikatan và Alon không chỉ tăng cường khả năng phối hợp giữa các lực lượng mà còn phản ánh cam kết bảo vệ các đồng minh trong khu vực. Các kịch bản tập trận năm 2025 lần đầu tiên mô phỏng việc bảo vệ đảo bị chiếm, tình huống hàm ý can thiệp quân sự thực tế nếu đồng minh bị tấn công. Dù Washington vẫn duy trì lập luận rằng chỉ là phòng vệ, nhưng sự thay đổi này mang dấu hiệu rõ rệt của một chuẩn bị chiến lược tiền khủng hoảng, nhằm răn đe Bắc Kinh nhưng cũng đồng thời gửi tín hiệu rằng Mỹ sẵn sàng vượt qua ngưỡng phòng thủ nếu lợi ích đồng minh bị xâm hại.

Từ ngày 21/4 đến 9/5/2025, Mỹ và Philippines đã tổ chức cuộc tập trận Balikatan lần thứ 40. Đây là cuộc tập trận quân sự song phương lớn nhất trong năm, nhằm tăng cường khả năng tương tác, sẵn sàng chiến đấu và củng cố Hiệp ước Phòng thủ chung Mỹ – Philippines. Năm nay, Nhật Bản lần đầu tiên tham gia với vai trò quan sát viên, đánh dấu sự mở rộng hợp tác trong khuôn khổ tam giác Mỹ – Nhật – Philippines. Điểm mấu chốt là việc triển khai hệ thống tên lửa chống hạm NMESIS của Thủy quân lục chiến Mỹ tại eo biển Luzon, gần các khu vực tranh chấp với Trung Quốc[10]. Đây là lần đầu tiên hệ thống này được triển khai tại Philippines và được kỳ vọng sẽ tăng cường khả năng răn đe và bảo vệ các tuyến đường biển chiến lược.

Cùng với đó, Mỹ đã triển khai hệ thống tên lửa tầm trung và radar cảnh giới sớm tại Luzon, kết hợp với mạng lưới giám sát hàng hải và không người lái. Về mặt kỹ thuật, việc bố trí này không chỉ hướng tới Biển Đông mà còn phục vụ đồng thời cho chiến lược răn đe đa hướng, bao gồm cả Đài Loan và Hoa Đông. Sự chồng lấn về không gian hoạt động khiến Luzon trở thành một bản lề chiến lược giữa hai mặt trận, đây là một tính toán giúp Mỹ tối ưu hóa chi phí quốc phòng nhưng đồng thời khiến Philippines trở nên dễ tổn thương hơn nếu xung đột nổ ra.

Thứ hai, chính quyền Trump 2.0 tái định vị chiến lược đồng minh theo hướng “gánh nặng chia sẻ, lợi ích song hành”. Khác với thời Biden, vốn chú trọng mở rộng mạng lưới đa phương, Trump ưu tiên mô hình đồng minh có điều kiện, tức là mỗi đối tác phải gánh phần lớn chi phí an ninh, đổi lại là sự bảo đảm chiến lược linh hoạt hơn từ Mỹ. Trong bối cảnh đó, Biển Đông được xem là điểm răn đe hợp lý nơi Washington có thể thể hiện năng lực quân sự và ý chí chính trị mà không cần can dự sâu như tại eo biển Đài Loan.

Philippines trở thành mắt xích đầu tiên trong cấu trúc này. Việc mở rộng thỏa thuận EDCA cho phép Mỹ tiếp cận thêm 4 căn cứ ở miền bắc và tây Philippines, trong đó có 3 vị trí hướng trực tiếp ra Biển Đông. Những căn cứ này không chỉ phục vụ mục tiêu phòng thủ, mà còn có khả năng tiếp tế và triển khai nhanh lực lượng trong tình huống khủng hoảng khu vực. Song song đó, Tokyo và Canberra cũng tăng cường tham gia các hoạt động huấn luyện ba bên, củng cố liên kết an ninh tiểu đa phương quanh vùng biển này.

Cách tiếp cận này giúp Mỹ phân bổ gánh nặng quân sự, song đồng thời cũng tạo ra tâm lý nghi ngờ trong khu vực. Nhiều nước ASEAN lo ngại Biển Đông đang bị tái quân sự hóa dưới vỏ bọc răn đe, trong khi chính các cơ chế đối thoại khu vực như COC giữa Trung Quốc và ASEAN lại bị đẩy ra ngoài trung tâm của tiến trình kiểm soát khủng hoảng.

Trong khuôn khổ Bộ Tứ Quad, Washington đang đẩy mạnh các sáng kiến hợp tác phi truyền thống như an ninh mạng, chuỗi cung ứng bán dẫn, năng lượng xanh và giám sát hàng hải. Đây là cách Mỹ mở rộng phạm vi răn đe một cách mềm mỏng hơn, không trực tiếp quân sự hóa nhưng vẫn củng cố sức mạnh tập thể nhằm đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Việc các cuộc tập trận như Malabar 2024 diễn ra thường niên với quy mô lớn hơn phản ánh quyết tâm của Mỹ trong việc xây dựng năng lực phối hợp chiến lược sớm giữa các đối tác cùng chí hướng[11].

Song song, thỏa thuận AUKUS giữa Mỹ, Anh và Úc trở thành công cụ thể hiện rõ nét năng lực răn đe công nghệ và sức mạnh hải quân tầm xa. Việc Mỹ chuyển giao công nghệ tàu ngầm hạt nhân và hệ thống vũ khí tiên tiến cho Úc[12] không chỉ nhằm gia tăng năng lực phòng thủ khu vực, mà còn gửi tín hiệu chiến lược mạnh mẽ tới Trung Quốc về khả năng phối hợp quân sự sâu rộng giữa các đồng minh. Thông qua AUKUS, Mỹ cũng củng cố mạng lưới chia sẻ thông tin tình báo và công nghệ quốc phòng, tạo lớp răn đe nhiều tầng bao trùm khu vực Tây Thái Bình Dương.

Ngoài các cơ chế chính thức, Mỹ còn chủ động tận dụng các diễn đàn Đối thoại trong đó có Shangri-La tại Singapore như một kênh ngoại giao chiến lược để định hình nhận thức an ninh khu vực. Qua các phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong các kỳ họp gần đây, Washington nêu bật thông điệp về “trật tự dựa trên luật lệ” và “tự do hàng hải”, đồng thời kêu gọi ASEAN đóng vai trò trung tâm trong quản trị khu vực. Điều này cho thấy Mỹ không chỉ tăng cường hiện diện quân sự, mà còn đầu tư vào mặt trận tư tưởng và ngoại giao, nhằm hợp thức hóa sự can dự của mình như một yếu tố ổn định trong cấu trúc an ninh khu vực.

Thứ ba, Mỹ gia tăng đáng kể áp lực pháp lý và tâm lý đối với Trung Quốc, qua đó củng cố tính chính danh cho sự hiện diện của mình. Sau vụ va chạm 11/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ ra tuyên bố nêu rõ về việc Trung Quốc phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi tổn thất, đồng thời khẳng định “Mỹ sẵn sàng bảo vệ đồng minh nếu bị tấn công”[13]. Mặc dù lời lẽ mang tính chuẩn mực, nhưng ngữ điệu của thông cáo thể hiện rõ mục đích chính trị, đặt Bắc Kinh vào thế bị buộc phải phản ứng. Việc lựa chọn từ ngữ có tính tuyệt đối là dấu hiệu cho thấy chính quyền Trump coi Biển Đông như một không gian đấu pháp tâm lý nơi từng tuyên bố được thiết kế nhằm thử phản ứng của Trung Quốc và định hình dư luận quốc tế theo hướng ủng hộ Mỹ.

Song song với đó, Washington còn đẩy mạnh công cụ pháp lý quốc tế. Các báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về giới hạn hàng hải liên tục tái khẳng định phán quyết 2016 của Tòa Trọng tài, coi đó là chuẩn mực pháp lý bắt buộc. Thậm chí, nhiều nghị sĩ Cộng hòa đề xuất gắn viện trợ phát triển khu vực với việc tuân thủ tự do hàng hải, nhằm biến nguyên tắc UNCLOS thành rào chắn chính trị đối với các nước bị xem là ủng hộ lập trường Bắc Kinh. Đây là cách Mỹ chuyển hóa công cụ pháp lý thành công cụ chiến lược, mở rộng xung đột từ phạm vi quân sự sang lĩnh vực nhận thức và thông tin.

Tổng hòa ba xu hướng trên cho thấy Mỹ đang tiến hành một dạng răn đe sớm có điều kiện ở Biển Đông. Washington không chủ trương gây chiến, nhưng rõ ràng đã chuyển sang trạng thái chuẩn bị cho khả năng xung đột cả về cấu trúc căn cứ, phối hợp đồng minh và thiết lập dư luận. Việc tăng cường FONOPs và các hoạt động quân sự song song với phát ngôn ngoại giao cứng rắn khiến không gian chiến lược ngày càng thu hẹp cho những giải pháp mềm dẻo.

Từ góc nhìn rộng hơn, chính sách Biển Đông dưới thời Trump 2.0 vừa phản ánh chiến lược răn đe bằng sức ép của Mỹ, vừa là phần mở rộng tự nhiên của cuộc cạnh tranh tổng thể Mỹ – Trung. Khi Washington nhận thức rằng đối đầu với Bắc Kinh là không thể tránh khỏi, Biển Đông trở thành vùng đệm thử nghiệm nơi Mỹ có thể kiểm định giới hạn sức chịu đựng của Trung Quốc mà chưa phải trả giá chiến lược quá lớn. Tuy nhiên, điều này cũng kéo theo một nghịch lý là chính các biện pháp răn đe quá mức nếu thiếu phối hợp ngoại giao lại khiến môi trường an ninh trở nên mong manh hơn, nơi một sự cố nhỏ có thể nhanh chóng vượt ngưỡng kiểm soát.

Nói cách khác, Mỹ không muốn chiến tranh ở Biển Đông, nhưng cũng không ngại một trạng thái cận chiến kéo dài, nơi sự hiện diện quân sự của mình được hợp pháp hóa bằng chính sự bất ổn mà họ giúp duy trì. Trong bức tranh ấy, Biển Đông năm 2025 không chỉ là không gian tranh chấp lãnh thổ, mà còn là bàn thử chiến lược nơi hai cường quốc cùng đo sức chịu đựng, đồng thời xác lập lại luật chơi của trật tự khu vực.

Nhận định chung

Nhìn từ toàn cảnh, chính sách của Mỹ tại Biển Đông dưới nhiệm kỳ Trump thứ hai đang vận hành trên một lằn ranh rất mong manh giữa răn đe và khiêu khích. Mục tiêu được tuyên bố là ngăn chặn xung đột thông qua sức mạnh, nhưng cách thức thực hiện đặc biệt là việc mở rộng hiện diện quân sự, tăng cường liên minh và phát tín hiệu cứng rắn lại đang đẩy khu vực tiến gần hơn đến tình huống mà trong lý thuyết chiến lược gọi là “self-fulfilling prophecy”, lý thuyết này được phát triển bởi nhà xã hội học Robert K. Merton[14], được hiểu là “Lời tiên tri tự hoàn thành” là khi một nhận định ban đầu sai lệch, nhưng chính hành vi của con người dựa trên nhận định đó lại khiến nó trở thành sự thật. Đây là nghịch lý điển hình trong lịch sử quan hệ quốc tế khi các bên tin rằng chiến tranh là không thể tránh khỏi, họ hành động như thể nó sắp xảy ra và chính hành động ấy lại khiến chiến tranh trở thành hiện thực.

Trong trường hợp Biển Đông năm 2025, logic này biểu hiện rất rõ. Khi Washington tăng cường hoạt động răn đe cứng, Bắc Kinh cảm thấy bị bao vây chiến lược, buộc phải đáp trả để giữ thể diện và khẳng định chủ quyền. Việc Trung Quốc triển khai thêm máy bay cảnh báo sớm và tàu đổ bộ Type-075 tại Trường Sa[15] không chỉ là phản ứng quân sự, mà còn là tín hiệu chính trị cho thấy nước này không chấp nhận bị điều tiết hành vi bởi một siêu cường bên ngoài. Trong khi đó, Manila được Mỹ hậu thuẫn và cam kết bảo vệ theo Hiệp ước Phòng thủ chung có xu hướng hành động táo bạo hơn, ví dụ như cho phép hải quân áp sát bãi cạn Scarborough hay tiếp tế Cỏ Mây bất chấp cảnh báo. Mỗi bên đều đang thử giới hạn nhau và điều nguy hiểm là không ai biết chắc giới hạn ấy nằm ở đâu.

Chỉ cần một sự cố nhỏ một vụ va chạm gây thương vong hoặc tổn thất tàu hoàn toàn có thể kích hoạt điều khoản hiệp ước Mỹ – Philippines, kéo Washington trực tiếp vào xung đột. Tiền lệ lịch sử cho thấy, một khi các bên cảm nhận lằn ranh an ninh của mình bị xâm phạm như trong khủng hoảng tên lửa Cuba thập niên 1960 thì trạng thái “bên miệng hố chiến tranh” gần như là hệ quả tất yếu. Trong bối cảnh đó, Biển Đông trở thành điểm dễ cháy nhất châu Á, nơi chỉ một mồi lửa nhỏ cũng có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền ngoài kiểm soát. Đây không còn là vấn đề của riêng Manila hay Bắc Kinh, mà là thách thức đối với toàn bộ cấu trúc an ninh khu vực, trong đó ASEAN và các nước có tranh chấp chủ quyền đứng trước bài toán quản trị khủng hoảng ngày càng phức tạp.

Ở cấp độ chiến lược, có thể nói Mỹ đang chơi sát giới hạn. Washington không chủ ý khơi mào một cuộc xung đột toàn diện, song lại hành động theo cách khiến khả năng xung đột trở nên ngày càng khả dĩ. Từ góc nhìn học thuật, đây là biểu hiện của mô hình răn đe có tính đối đầu cao, trong đó mỗi hành động răn đe của một bên lại thúc đẩy bên kia phản ứng mạnh hơn, khiến tình hình bị xô đẩy đến gần xung đột, hay là khi một quốc gia tìm cách duy trì hòa bình bằng việc chứng tỏ sẵn sàng đánh, nhưng lại vô tình kích thích đối phương phản ứng theo hướng đối đầu.

Từ đó, câu hỏi đặt ra là liệu các kênh ngoại giao hiện nay có còn đủ hiệu quả để ngăn khu vực rơi vào vòng xoáy đối đầu giữa hai cường quốc, khi sự nghi kỵ và cạnh tranh ngày càng gia tăng? Khi các kênh đối thoại quân sự Mỹ – Trung vẫn gián đoạn và các cơ chế tham vấn khủng hoảng trong khuôn khổ ASEAN mới chỉ dừng ở mức kỹ thuật, khả năng quản trị xung đột khu vực gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự kiềm chế chiến lược của hai bên, điều đang trở nên ngày càng mong manh.

Triển vọng trước mắt không hoàn toàn bi quan, song rõ ràng là đầy rủi ro. Nếu Mỹ tiếp tục coi Biển Đông như điểm răn đe hợp lý để phô trương sức mạnh, còn Trung Quốc xem đó là ranh giới chủ quyền đỏ không thể thỏa hiệp, thì một kịch bản va chạm có kiểm soát rất dễ trượt sang khủng hoảng thực sự. Khi đó, Biển Đông không chỉ là phép thử cho sức mạnh quân sự, mà còn là thước đo năng lực quản trị khủng hoảng của trật tự quốc tế hiện tại.

Kết Luận

Về bản chất, Mỹ không mong muốn chiến tranh ở Biển Đông. Washington hiểu rõ rằng một cuộc xung đột quân sự trực tiếp với Trung Quốc, đặc biệt tại một khu vực nhạy cảm, có tuyến hàng hải trọng yếu và nhiều nước ASEAN liên quan sẽ mang lại hậu quả khôn lường cho kinh tế toàn cầu và cho chính vị thế của Mỹ. Chiến tranh có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng, đẩy giá năng lượng tăng cao, gây mất lòng tin với các đồng minh trong khu vực, và khiến Mỹ phải dàn trải nguồn lực quân sự trong bối cảnh họ vẫn đang đối phó với Nga ở châu Âu và duy trì răn đe ở eo biển Đài Loan.

Tuy nhiên, Mỹ muốn duy trì căng thẳng để kiểm soát Trung Quốc. Thay vì chiến tranh, Washington chủ trương răn đe cứng, duy trì hiện diện quân sự và thách thức các yêu sách phi pháp của Trung Quốc thông qua các hoạt động tự do hàng hải . Mục tiêu là ngăn Trung Quốc “hợp pháp hóa” quyền kiểm soát thực tế, đồng thời củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ trong trật tự khu vực. Nói cách khác, Mỹ muốn Biển Đông là mặt trận cạnh tranh chiến lược, chứ không phải chiến trường nóng. Mỹ cũng tận dụng căng thẳng để củng cố mạng lưới liên minh, bằng các hoạt động diễn tập chung, hiệp định quốc phòng đều cho phép Mỹ mở rộng ảnh hưởng mà không cần trực tiếp gây chiến. Sự hiện diện này giúp Washington định hình luật chơi, kiểm soát rủi ro, và tạo đòn bẩy trong đàm phán với Bắc Kinh.

—————————-

Tài liệu tham khảo:

[1]Jonathan Masters. (2023). Ukraine: Conflict at the crossroads of Europe and Russia. Council on Foreign Relations. https://www.cfr.org/backgrounder/ukraine-conflict-crossroads-europe-and-russia
[2] Independent International Commission on Kosovo. (2000). The Kosovo Report and Update. (pp. 1–107). https://drive.google.com/file/d/1W_OmVmuraahX3fwgGWy64R7RM1Kl07nI/view?usp=sharing
[3] Sophie Wushuang Yi. (2024). Steadying the waters: Navigating the tensions at Second Thomas Shoal. The Diplomat. https://thediplomat.com/2024/04/steadying-the-waters-navigating-the-tensions-at-second-thomas-shoal/
[4] Ted Regencia & News Agencies. (2025). Philippines accuses China of ramming, damaging vessel in South China Sea. AlJazeera. https://www.aljazeera.com/news/2025/10/12/philippines-accuses-china-of-ramming-damaging-vessel-in-south-china-sea
[5] Zhuang Pinghui. (2024). Chinese coastguard uses water cannon, blocks Philippine vessels near Scarborough Shoal. South China Morning Post. https://www.scmp.com/news/china/diplomacy/article/3289243/south-china-sea-chinese-coastguard-blocks-philippine-vessels-near-scarborough-shoal
[6] Alex Wilson. (2025). 7th Fleet denies China drove US warship away from South China Sea shoal. Stars and Stripes. https://www.stripes.com/branches/navy/2025-08-14/higgins-scarborough-china-phillipines-7th-fleet-18758627.html
[7] USNI News. (2025). Chinese coast guard, navy ships collide in South China Sea during blockade attempt against Philippine forces. https://news.usni.org/2025/08/11/chinese-coast-guard-navy-ships-collide-in-south-china-sea-during-blockade-attempt-against-philippine-forces
[8] James E. Fanell. (2019). U.S. foreign policy finally returns to sea: The Trump maritime strategy. U.S Naval institute. Proceedings, 145(2), 1392. https://www.usni.org/magazines/proceedings/2019/february/us-foreign-policy-finally-returns-sea-trump-maritime-strategy
[9] Du Lan. (2025). Expect more U.S. military in South China Sea. China-United States Focus. https://www.chinausfocus.com/foreign-policy/expect-more-us-military-in-south-china-sea
[10] The Times. (2025). US deploys ‘ship killer’ missiles to Philippines for battle test. https://www.thetimes.com/world/asia/article/us-deploys-ship-killer-missiles-to-philippines-for-battle-test-dqt72gq7v
[11] Press Information Bureau. (2024). Maritime Exercise Malabar 2024, commencing at Visakhapatnam on 08 Oct hosted by India, USA, Australia and Japan in participation. Ministry of Defence. https://www.pib.gov.in/PressReleasePage.aspx?PRID=2062316
[12] Australian Submarine Agency. (2024). AUKUS agreement for cooperation on naval nuclear propulsion. https://www.asa.gov.au/aukus/aukus-agreement-cooperation-related-naval-nuclear-propulsion
[13] U.S. Department of State. (2025). U.S. statement on dangerous Chinese actions in the South China Sea. https://www.state.gov/releases/office-of-the-spokesperson/2025/10/u-s-statement-on-dangerous-chinese-actions-in-the-south-china-sea
[14] Robert K. Merton. (1948). The self-fulfilling prophecy. The Antioch Review, 8(2), 193–210. https://www.jstor.org/stable/4609267?origin=crossref
[15] China Military Online. (2025). Navy expands amphibious assault fleet. http://eng.chinamil.com.cn/OPINIONS_209196/Opinions_209197/16400578.html

Theo TRƯƠNG QUỐC LƯỢNG / NGHIENCUUCHIENLUOC.ORG 

Tags: , , , ,