⠀
Giáo sĩ phương Tây nói về thuật chữa bệnh lạ lùng của thầy lang người Việt
Đã nhiều lần các bác sĩ Bồ Đào Nha bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, nhưng khi tìm đến ông lang An Nam bệnh đã khỏi rất nhanh…
Đây là bài viết của giáo sĩ Cristoforo Borri (1583-1632) kể về các thuật chữa bệnh kỳ lạ của các vị lương y thời xưa ở Trung Kỳ (một trong ba kỳ của nước Việt Nam trước đây). Nguyễn Trọng Phấn biên dịch (có hiệu chỉnh một số đoạn để các độc giả ngày nay dễ hiểu hơn).
Về các ông lương y và phép chữa bệnh, tôi phải nói rằng ở Trung kỳ có rất nhiều lương y người Bồ Đào Nha và bản xứ; thường có những bệnh rất lạ, không có thuốc chữa đối với y sĩ Âu châu, thì ở đây các ông lang đã biết rõ căn chứng rồi và chữa được rất dễ dàng. Đã nhiều lần các bác sĩ Bồ Đào Nha bỏ mặc người bệnh rồi tưởng thế là đi đứt, nhưng khi tìm đến ông lang An Nam bệnh đã khỏi rất nhanh.
Những y sĩ bản xứ
Phương pháp của các y sĩ An Nam là khi bước vào buồng con bệnh, họ nghỉ một lúc để cho hết sự mỏi mệt trong khi đi đường. Sau đó họ bắt mạch rất ý tứ và cẩn thận; xong rồi họ nói rõ căn bệnh cho người ốm biết; nếu bệnh không còn chữa được, cứu được nữa thì họ nói thật: tôi không có thuốc để chữa, tỏ cho con bệnh rõ là không thể nào qua khỏi được; nếu họ đoán rằng nhờ thuốc họ mà người ốm lành bệnh được, họ sẽ bảo cho ta biết là họ có thuốc chữa và bao nhiêu lâu thì người ta đi đứng được. Xong rồi thì họ tính tiền công tùy theo bệnh nặng hay nhẹ. Cũng có khi họ làm giấy cam kết với gia chủ. Rồi họ kê đơn và bốc thuốc, không nhờ đến người khác bốc thuốc, một là để giữ kín, hết sức kín các đơn thuốc của họ, hai là họ không dám tin và nhờ người khác bốc thuốc thay họ. Nếu đúng hạn khỏi, bệnh nhân phải trả công cho thầy; nếu không khỏi thì thầy uổng công và mất tiền thuốc.
Không như thuốc ta làm cho người uống ghê tởm, “bụng mềm và dãn ra”, thuốc nam dễ uống như nước cháo và rất bổ, uống vào không cần phải ăn cơm. Nên một ngày người ốm uống mấy lần như ta uống nước xuýt. Đã không trái với lẽ tự nhiên, thuốc lại còn bồi bổ những bộ phận trong người, làm tiêu các khí độc, mà không hành người ốm.
Vào chỗ này có một chuyện đáng kể: Một người Bồ Đào Nha ốm, nhờ các lương y Âu châu chữa mãi không khỏi; người ta đành bỏ mặc anh ta chết không đến thăm nom nữa; sau vời một ông lang bản xứ đến; ông này cam đoan chữa khỏi cho anh ta trong một kỳ hạn nhất định, nhưng căn dặn anh ta là trong lúc để ông chữa, anh ta phải kiêng cử, việc qua lại với đàn bà phải cấm ngặt; nếu anh ta trái lời thì không có thuốc nào chữa nữa; phải cử đàn bà mới sống được. Hai bên đồng ý làm giao kèo và ông lang nói chắc ba mươi ngày thì khỏi. Bệnh nhân uống thuốc, vài ngày thấy khỏe khoắn và không còn sợ cái việc mà ông lang đã cấm ngặt anh ta. Chuyện đến đấy thì ông lang lại thăm anh ta, thấy mạch khác, bảo anh ta sửa soạn việc ma chay đi vì ông không còn hy vọng gì nữa và hết phương cứu chữa rồi; bảo anh ta đừng quên trả tiền công đã hẹn trong giao kèo vì anh ta chết không phải lỗi tại ông ta. Việc đem đến cửa quan, án ra bắt người bệnh cùng ông lang; và án tuyên rồi thì anh Bồ Đào Nha kia hấp hối.
Lá cỏ thần kỳ
Người Trung kỳ còn biết chích huyết nữa; nhưng họ quý máu người ốm hơn ta và họ không dùng những dao chích thông thường đâu: họ có những lông ngỗng trong có cắm “kim” bằng sứ rất sắc có cái to, cái nhỏ và hình răng cưa.
Khi phải cắt mở một huyết quản nào, họ đặt lên trên huyết quản ấy một chiếc lông ngỗng lớn vừa bằng bề ngang huyết quản, chiếc “kim” vào nông hay sâu đúng với ý muốn. Phải phục họ là sau khi lấy đủ máu rồi, họ chẳng cần đến băng bó, vải thấm hay dây buộc gì cả, chỉ cần lấy nước bọt thấm đầu ngón tay cái rồi đem ấn lên chỗ vết thương, họ làm cho thịt liền lại, máu ngừng chảy và vết thương chóng lành. Tôi đoán là vì họ dùng chiếc “kim” sứ có răng nên mạch máu chóng hàn miệng và liền được ngay.
Người Trung kỳ không thiếu những thầy giải phẫu. Tôi chỉ muốn đem cách họ đã chữa tôi và một người bạn ra làm thí dụ.
Tôi bị ngã từ nơi rất cao, dạ dày đập vào đá làm tôi thổ huyết và ngực bị tổn thương. Uống thuốc tây chẳng đỡ chút nào. Lúc đó có một ông lang chuyên nghề giải phẫu đến cho tôi một ít cỏ, giống như cỏ mercuriale của ta (một loại cây họ Thầu dầu), một phần ông ta đem giã và đắp lên khu vực dạ dày tôi; một phần đem sắc lấy nước cho tôi uống; và một phần bảo tôi ăn sống. Vài ngày sau, tôi hoàn toàn khỏi. Để tự thí nghiệm, tôi đã bắt một con gà con đem bẻ chân nó gãy thành nhiều đoạn rồi đem cỏ ấy đắp lên chỗ vết thương vài bữa thì con gà nguyên lành.
Một thầy dòng là bạn tôi bị bọ cạp đốt – nọc bọ cạp có thể làm chết người ở xứ này – cổ họng sưng phù ra và chúng tôi đã nghĩ đến phép sức dầu thánh cho thầy ta thì bỗng có một ông lang ngoại khoa đến. Ông thổi một nồi cơm với nước lã, xong rồi ông ta đặt nồi cơm xuống dưới hai chân thầy dòng, lấy chăn trùm kín thầy ta để hơi cơm và khói nóng không mất đi đâu được. Hơi bốc lên đến chỗ bị thương, thì thầy dòng thấy bớt đau, cổ hết sưng và người khỏe mạnh như không bao giờ bị bệnh cả.
Còn có nhiều việc tương tự như thế, nhưng thuốc dùng ngay tại xứ ấy công hiệu hơn là đem về đây. Riêng tôi có đem về một thùng nhỏ đại hoàng (rhubarbe), lúc xuống tàu còn tốt vào bậc nhất nhưng sau hai năm đi đường lúc về đến Âu châu thì đại hoàng biến chất đến nỗi tôi không nhận ra được nữa. Thế mới biết các dược thảo đem từ bên ấy về đây mất hết cả linh nghiệm.
S.T
Tags: Y học, Nhà Hậu Lê