⠀
Xung đột Israel – Palestine: Phương Tây tẩy não chúng ta như thế nào?
Trong 128 năm qua, phong trào Phục quốc Do Thái và sau đó là nhà nước Israel đã xây dựng một mạng lưới ngụy biện xoay quanh việc thành lập nước Israel và cuộc xung đột đang diễn ra, đồng thời tìm cách biện minh cho hành động của Israel nhằm thanh lọc sắc tộc và áp bức người dân Palestine.
Tác giả: Kim Bullimore, nhà xã hội lâu năm đến từ phía Bắc Queensland, Australia. Bà là nhà đồng tổ chức Hội nghị tẩy chay, thoái vốn và trừng phạt đầu tiên của Australia để ủng hộ Palestine vào năm 2010.
Biên dịch: Vnmarxist.com.
Mạng lưới sai lầm lịch sử và hiện tại này, thường được lặp đi lặp lại bởi các phương tiện truyền thông tư bản và các chính phủ phương Tây, vốn đang tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc ở Trung Đông. Nỗ lực này không chỉ để khiến cho mọi người hoang mang bối rối về nguồn gốc của cuộc xung đột mà còn để đảm bảo rằng một giải pháp công bằng là không bao giờ có thể đạt được.
Chỉ bằng cách vạch trần những huyền thoại này, tách biệt sự thật lịch sử khỏi sự hư cấu của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, chúng ta mới có thể hiểu được nguồn gốc và nguyên nhân của cuộc xung đột.
Lầm tưởng số 1: Xung đột tôn giáo
Thần thoại theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái thường coi xung đột Israel-Palestine là một xung đột tôn giáo đã kéo dài hàng thế kỷ giữa người Do Thái và người Ả Rập Palestine. Đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết về lịch sử. Thực tế là xung đột giữa người định cư và thuộc địa chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20.
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, nền tảng tư tưởng xây dựng nên nhà nước Israel, chỉ nổi lên vào cuối thế kỷ 19 nhằm phản ứng lại với chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu.
Phản ứng trước sự đàn áp mà người Do Thái bên trong các đế quốc Áo-Hung và Nga phải đối mặt, một bộ phận nhỏ tiểu tư sản Do Thái ở châu Âu bắt đầu tán thành với ý tưởng rằng chừng nào người Do Thái còn phải sống giữa những người không phải Do Thái thì chừng đó chủ nghĩa bài Do Thái mà họ phải đối mặt còn là một sự xuất hiện không thể tránh khỏi, chứ không phải là kết quả của những diễn biến lịch sử. Do đó, những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái bắt đầu chiến dịch thành lập một quê hương “quốc gia dân tộc”, mặc dù trên thực tế họ không phải là một dân tộc mà là một nhóm tôn giáo và văn hóa.
Theodore Herzl, người sáng lập phong trào Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, hiểu rằng thế giới đã bị chia cắt bởi các thế lực thực dân cạnh tranh nhau và rằng việc thành lập một “quê hương dân tộc” cho người Do Thái ở Palestine là điều không thể. Viết trong Nhà nước Do Thái, luận văn chính trị vào năm 1896 của mình, Herzl tự hỏi, “Chúng ta rồi sẽ chọn Palestine hay Argentina?” Ông lưu ý rằng phong trào Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái sẽ “lấy những gì được trao cho chúng ta và những gì được dư luận Do Thái lựa chọn”.
Herzl cũng khám phá khả năng thành lập một quốc gia trên một số địa điểm, bao gồm cả Angola, Kenya và Bắc Phi, đồng thời tìm kiếm sự trợ giúp của một trong những nhà thực dân và tư bản Anh nổi tiếng nhất thời bấy giờ, Cecil Rhodes. Trong một bức thư viết năm 1902, Herzl đã mời Rhodes “giúp tạo nên lịch sử”, lưu ý rằng trong khi dự án Phục quốc Do Thái “không liên quan đến Châu Phi mà là một phần của Tiểu Á: không phải cho người Anh mà là người Do Thái. Thế nào mà tôi lại tình cờ quay sang bạn? Thực sự thế nào nhỉ? Bởi vì nó là một cái gì đó về thuộc địa”.
Năm 1904, một năm trước khi qua đời, Herzl đã nhiệt tình chấp nhận lời đề nghị của Anh để thành lập một nhà nước Do Thái ở Uganda. Không những vậy, Đại hội Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái vào năm 1905 đã bác bỏ kế hoạch ủng hộ việc thành lập một nhà nước Do Thái ở Palestine.
Lầm tưởng số 2: Israel không phải là một quốc gia định cư thuộc địa
Các xã hội định định cư thuộc địa là một kiểu hình thành chủ nghĩa đế quốc khác hẳn, dựa trên việc loại bỏ một cách phân biệt chủng tộc đối với người dân bản địa thông qua nhiều biện pháp khác nhau, bao gồm thanh lọc sắc tộc, diệt chủng và/hoặc đồng hóa.
Không giống như các hình thức chủ nghĩa thực dân khác tập trung vào việc khai thác tài nguyên, chủ nghĩa thực dân định cư chủ yếu liên quan đến việc kiểm soát lãnh thổ và loại bỏ dân bản địa để thay thế bằng dân định cư. Như nhà lý thuyết thuộc địa – định cư quá cố người Australia, Patrick Wolfe, lưu ý: “chủ nghĩa thực dân định cư phá hủy nhằm thay thế”.
Trước, trong và sau khi Israel thành lập, phong trào Phục quốc Do Thái đã tìm cách kiểm soát càng nhiều vùng đất Palestine lịch sử càng tốt, thiết lập một cộng đồng định cư lâu dài bằng cách loại bỏ và thay thế dân số Ả Rập Palestine bản địa.
Trước những năm 1890, người Do Thái chỉ chiếm chưa đến 4% dân số Palestine. Phần còn lại là người Hồi giáo và Cơ đốc giáo nói tiếng Ả Rập. Ban đầu, phong trào Phục quốc Do Thái cố gắng mua đất từ các chủ đất người Palestine và Ả Rập, trục xuất những tá điền người Palestine và các gia đình đã làm việc trên đất trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, rõ ràng là phần lớn người Palestine không quan tâm đến việc bán đất của họ cho người nhập cư châu Âu.
Vào năm 1947, khi Liên Hợp Quốc quyết định phân chia Palestine trái với ý muốn của người Ả Rập Palestine bản địa, đề xuất bàn giao 54% lãnh thổ cho những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, người Do Thái vẫn mới chỉ chiếm 33% dân số trong 1.845.000 cư dân. Chưa đầy một năm sau, vào cuối năm 1948, bảng nhân khẩu học đã bị đảo ngược, người định cư Do Thái giờ chiếm đa số.
Nhưng điều này là do trong những tháng trước khi đề xuất phân chia, từ tháng 12 năm 1947 đến tháng 4 năm 1948, lực lượng dân quân Phục quốc Do Thái đã thực hiện các cuộc tấn công chiến lược vào các thành phố và làng mạc của người Palestine, khủng bố và giết chết hàng nghìn thường dân Palestine. Lực lượng dân quân Phục quốc Do Thái sau cùng sẽ trục xuất 1 triệu người Ả Rập khỏi 418 trong số 476 thành phố, thị trấn và làng mạc của người Palestine, trong đó 750.000 người phải chạy trốn sang các quốc gia lân cận, trong khi 150.000 người khác trở thành dân tị nạn không chốn dung thân bên trong nhà nước Do Thái mới thành lập.
Trong số 418 ngôi làng và thị trấn của người Palestine bị Israel thanh lọc sắc tộc, 385 ngôi làng đã bị phá hủy hoàn toàn khi Israel nắm quyền kiểm soát 78% diện tích Palestine lịch sử.
Bất kể những người định cư Phục quốc Do Thái có cố gắng mua đất hay cưỡng bức chiếm đoạt như họ đã làm vào năm 1948, thì động lực thuộc địa của người định cư trong phong trào Phục quốc Do Thái và nhà nước Israel vẫn như cũ. Trong cả hai trường hợp, phong trào Phục quốc Do Thái đều tìm cách chiếm giữ vĩnh viễn một vùng lãnh thổ bằng cách thay thế dân cư ban đầu.
Ngày nay, Israel vẫn là một quốc gia thuộc địa định cư theo chủ nghĩa bành trướng. Ở Bờ Tây và Đông Jerusalem bị chiếm đóng, Israel tiếp tục cướp đất của người Palestine và thanh lọc sắc tộc nhắm vào người Palestine nhằm xây dựng các thuộc địa bất hợp pháp chỉ dành cho người Do Thái, trong khi ở Israel, họ tìm cách thanh lọc sắc tộc từ 70.000 đến 100.000 công dân Israel thuộc sắc dân Palestine Bedouin khỏi quê hương của họ, Naqab (Negev), để nhường chỗ cho các khu định cư và thị trấn của người Do Thái.
Một báo cáo năm 2012 của Raquel Rolnik, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về quyền nhà ở, đã lên án Israel: “Từ Galilee và Negev đến Đông Jerusalem và Bờ Tây, chính quyền Israel thúc đẩy một mô hình phát triển lãnh thổ theo đó loại trừ, phân biệt đối xử chống lại và di dời các nhóm thiểu số, đặc biệt ảnh hưởng đến các cộng đồng người Palestine, song hành với sự phát triển nhanh chóng của các khu định cư chủ yếu là người Do Thái”.
Mười năm sau, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về Lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, Francesca Albanese, trong báo cáo đầu tiên của mình lưu ý thêm rằng “việc vi phạm quyền tự quyết của người dân là cố hữu của chủ nghĩa thực dân định cư”.
Lầm tưởng tưởng số 3: David đấu với Goliath
Thần thoại mà những người Phục quốc Do Thái luôn vẽ ra là hình ảnh Israel giống như chàng David bị nhốt trong trận chiến sinh tồn với Goliath, hay các quốc gia Ả Rập hung hãn tìm cách tiêu diệt nước này bằng mọi giá. Thậm chí ngày nay, sự ra đời của nhà nước theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái vào năm 1948 và cuộc chiến tranh năm 1967 trong đó Israel giành quyền kiểm soát Bờ Tây, Gaza và đông Jerusalem vẫn được miêu tả theo cách này.
Câu chuyện này đã không bị thách thức một cách có hệ thống cho đến khi có sự xuất hiện của “các nhà tân sử học” của Israel vào những năm 1980. Các học giả như Avi Shlaim đã tiết lộ rằng sự ra đời “thần kỳ” của nhà nước Israel trước sự xâm lược của các nhóm Ả Rập xâm lược “có ưu thế vượt trội về số lượng” chỉ là một huyền thoại.
Theo Shlaim, vào giữa tháng 5 năm 1948, “tổng quân số Ả Rập, cả chính quy lẫn phi chính quy, hoạt động tại mặt trận Palestine là dưới 25.000, trong khi Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) có tới hơn 35.000 quân”. Đến giữa tháng 7, quân đội Israel lên tới 65.000 người và tăng lên 96.000 vào tháng 12 năm 1948. Ngoài ra, lực lượng theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái được huấn luyện và kỷ luật tốt hơn các lực lượng Ả Rập. Như Shlaim lưu ý, “Do đó, kết quả cuối cùng của cuộc chiến không phải là một phép lạ mà là sự phản ánh trung thực sự cân bằng quân sự cơ bản trên chiến trường Palestine”.
Tương tự, thần thoại của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái miêu tả Israel đang phải đối mặt với sự hủy diệt sắp xảy ra dưới bàn tay của những kẻ xâm lược Ả Rập vào năm 1967. Theo Ngoại trưởng Israel lúc bấy giờ là Abba Eban – trong bài phát biểu trước Liên hợp quốc vào ngày 19 tháng 6 năm 1967 biện minh cho việc Israel chiếm giữ lãnh thổ Palestine, Ai Cập và Syria – Nhà nước theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái phải đối mặt với một sự lựa chọn rõ ràng “sống hay diệt vong, bảo vệ sự tồn tại của quốc gia hay mất nó vĩnh viễn”. Tuy nhiên, Cuộc chiến sáu ngày do Israel phát động vào ngày 5 tháng 6 chống lại Ai Cập, Syria và Jordan không phải là một cuộc chiến tranh tự vệ mà là một cuộc bành trướng, cho phép Israel chiếm giữ phần còn lại của Palestine lịch sử.
Như nhà sử học Israel Ilan Pappe đã lưu ý trong cuốn sách Mười huyền thoại của Israel, kể từ năm 1948, các bộ phận giới tinh hoa chính trị và quân sự của Israel đã tìm kiếm cơ hội chiếm lấy những gì còn lại của Palestine để thiết lập một “Israel vĩ đại hơn”. Theo Pappe, cuộc chiến năm 1967 đã mang lại “cơ hội tốt nhất” để thực hiện điều này.
Trước khi chiến tranh bắt đầu, cả Israel và Hoa Kỳ đều biết rằng Tổng thống Ai Cập Gamal Nasser không muốn gây chiến. Vào thời điểm Ai Cập di chuyển quân, Yitzhak Rabin, người đứng đầu lực lượng quân sự Israel, đã thông báo với chính phủ của mình rằng mặc dù quân đội Ai Cập đã được triển khai đến Sinai nhưng họ không ở thế tấn công và rằng “Nasser không muốn chiến tranh”. Thủ tướng Israel Menachem Begin, người từng giữ chức bộ trưởng nội các trong chính phủ “đoàn kết” trong Chiến tranh Sáu ngày, sau đó thừa nhận rằng Israel là kẻ xâm lược, nói: “Chúng ta phải thành thật với chính mình. Chính chúng ta quyết định tấn công anh ta”.
Tổng thống Israel và cựu bộ trưởng quốc phòng Ezer Weizmann, người từng là người đứng đầu các hoạt động quân sự của Israel vào năm 1967 và là người có công trong việc phát động cuộc chiến vào tháng 6, cũng thừa nhận tương tự rằng Israel không phải đối mặt với mối đe dọa hủy diệt nào và ưu thế quân sự của Israel đảm bảo rằng, nếu Ai Cập tấn công trước, nó sẽ “thất bại hoàn toàn” trong vòng mười ba giờ.
Năm 1972, Tướng Mattiyahu Peled, người lãnh đạo các nỗ lực chiến tranh của Israel năm 1967, đã một lần và mãi mãi vạch trần huyền thoại rằng Israel tham chiến vì nước này phải đối mặt với sự hủy diệt sắp xảy ra. Theo Peled, tuyên bố này là một “sự lừa bịp” và Israel không phải đối mặt với mối đe dọa nào như vậy. Peled sau đó đã lên án hành động của Israel là một “chiến dịch bành trướng lãnh thổ đầy nghi hoặc”.
Ngày nay, Israel sở hữu một trong những lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới. Điều này chủ yếu là do nước này nhận được hàng tỷ USD viện trợ của Mỹ. Năm 2016, Mỹ đã ký một thỏa thuận hỗ trợ quân sự mới có thời hạn 10 năm với Israel, thỏa thuận lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, trị giá 38 tỷ USD. Thỏa thuận này tăng 27% so với thỏa thuận hỗ trợ quân sự trước đó được ký vào năm 2007.
Chủ nghĩa đế quốc Mỹ tìm cách kiểm soát trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên khổng lồ ở Trung Đông. Trong nỗ lực này, Israel đã trở thành đồng minh chính của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, liên minh Mỹ-Israel dựa trên lợi ích chính trị chung – phản đối bất kỳ hình thức chủ nghĩa cực đoan Ả Rập nào có thể đe dọa sự thống trị của Mỹ hoặc Israel trong khu vực.
Lầm tưởng số 4: Israel là nền dân chủ duy nhất ở Trung Đông
Israel thường được quảng cáo là “nền dân chủ duy nhất ở Trung Đông”. Nhưng còn lâu mới trở thành một nền dân chủ cho mọi công dân của mình chứ đừng nói gì đến khu vực; mang danh một quốc gia dân chủ mà Israel không trao cho mọi công dân của mình những quyền như nhau. Một trong những luật đầu tiên được nước Israel mới thành lập thông qua vào năm 1949 là luật tài sản “Vắng mặt”, cho phép tịch thu đất đai và tài sản của hơn 1 triệu người Palestine đã bị lực lượng dân quân Phục quốc Do Thái buộc phải rời bỏ quê hương vào năm 1948.
Từ năm 1949 đến năm 1966, công dân gốc Palestine ở Israel bị buộc phải sống trong tình trạng thiết quân luật. Không giống như công dân Do Thái của nhà nước theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, công dân Palestine thường xuyên phải chịu lệnh giới nghiêm và đàn áp chính trị, các thống đốc quân sự Israel cai trị mạng sống của người Palestine mà không bị trừng phạt. Mặc dù là công dân Israel, người Palestine không thể rời khỏi hay vào thị trấn của họ mà không có giấy phép, các hạn chế được đặt ra đối với giáo dục và việc làm của họ, đồng thời các hoạt động và tổ chức chính trị đều bị cấm.
Viết cho Haaretz vào ngày 16 tháng 6 năm 2013, tiểu thuyết gia người Palestine Odeh Bisharat đã kể lại trải nghiệm của gia đình ông dưới chế độ quân sự của Israel từ năm 1949 đến năm 1966. Ngoài cuộc đấu tranh hàng ngày để có được giấy phép xuất cảnh để làm việc tại “các thành phố Do Thái”, Bisharat lưu ý rằng Shin Bet (của Israel) cảnh sát mật) và mạng lưới cộng tác viên/người cung cấp thông tin cho nó có mặt khắp nơi trong cuộc sống của tất cả người Palestine, đảm bảo rằng “chính quyền quân sự định cư trong nhà của chúng tôi, nép mình giữa các tấm trải giường của chúng tôi, giữa cha và con, chồng và vợ, cho đến khi mọi thứ dường như không còn gì để nghi ngờ nữa”.
Theo nhà nghiên cứu Sarah Ozacky-Lazar, chế độ cai trị quân sự của Israel “thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống dân sự và trở thành công cụ nhà nước để kiểm soát chính trị, kinh tế và xã hội đối với thiểu số Ả Rập”.
Mặc dù thiết quân luật chính thức kết thúc vào năm 1966, công dân Palestine ở Israel vẫn không được hưởng các quyền dân chủ và dân sự như công dân Do Thái. Theo nhóm nhân quyền Israel Adalah – Trung tâm pháp lý của người thiểu số Ả Rập – kể từ năm 1948, hơn 65 luật phân biệt đối xử đã được ban hành chống lại người Palestine, những người chiếm 20% dân số Israel.
Ví dụ, vào năm 2015 và 2016, Israel đã ban hành bảy luật mới phân biệt đối xử với công dân Palestine và người Palestine sống dưới sự chiếm đóng của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái ở phía đông Jerusalem, Bờ Tây và Gaza. Adalah giải thích rằng những luật mới này “làm suy yếu các biện pháp bảo vệ, quyền và tự do cơ bản nhất về mặt pháp lý, bao gồm quyền ứng cử và bầu cử, quyền biểu đạt chính trị, các biện pháp bảo vệ thủ tục thiết yếu cho người bị giam giữ và quyền sở hữu tài sản”.
Trong số các luật có một luật cho phép đa số người Do Thái trong Knesset (quốc hội) phế truất các thành viên Ả Rập được bầu và danh sách chính trị của họ hoàn toàn dựa trên những cân nhắc về chính trị hoặc ý thức hệ. Theo Adalah, luật này được ban hành “để ủy quyền cho các đại diện chính trị được bầu của thiểu số Palestine ở Israel”, sau một loạt luật khác bao gồm “Luật ngưỡng bầu cử”, “Luật Nakba” và “Luật tẩy chay” đã được đưa ra nhằm bịt miệng công chúng Ả Rập Palestine.
Vào năm 2018, Knesset tiếp tục duy trì chính sách phân biệt chủng tộc trong nhiều thập kỷ khi thông qua luật “Nhà nước dân tộc Do Thái”. Theo luật này, quyền tự quyết ở Israel “là quyền duy nhất của người Do Thái”. Nó cũng xác lập “khu định cư của người Do Thái” như một giá trị quốc gia. Sau khi luật được thông qua, một trong những nhà tài trợ của nó, Avi Dichter – một người phân biệt chủng tộc chống người Ả Rập và là cựu lãnh đạo của Shin Bet – đã làm rõ mục đích của nó: “Hôm nay, chúng ta đang đưa dự luật quan trọng này thành luật để ngăn chặn ngay cả những ý nghĩ dù là nhỏ nhất, chứ chưa nói đến việc nỗ lực biến Israel thành một đất nước của tất cả công dân”.
Lầm tưởng số 5: Israel không phải là một quốc gia phân biệt chủng tộc
Israel áp đặt một hệ thống các quyền và đặc quyền theo bản sắc dân tộc và tôn giáo, phù hợp với định nghĩa về phân biệt chủng tộc được quy định trong Công ước quốc tế về ngăn chặn và trừng phạt tội ác phân biệt chủng tộc năm 1973.
Theo công ước, chế độ phân biệt chủng tộc bao gồm việc từ chối quyền sống của các thành viên của một nhóm chủng tộc, bắt giữ tùy tiện, bỏ tù bất hợp pháp, gây tổn hại nghiêm trọng về thể chất và/hoặc tinh thần (chẳng hạn như tra tấn hoặc hình phạt hạ nhục), bóc lột các nhóm chủng tộc bằng cách lao động cưỡng bức và áp đặt các điều kiện sống nhằm mục đích tiêu diệt – một phần hoặc toàn bộ – nhóm.
Hơn nữa, Điều Hai của Công ước xác định chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là phủ nhận “các quyền và tự do cơ bản của con người” đối với các nhóm chủng tộc và việc thực hiện “bất kỳ biện pháp lập pháp và biện pháp nào khác được tính toán nhằm ngăn chặn một hoặc nhiều nhóm chủng tộc tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội, kinh tế và đời sống văn hóa xã hội của đất nước”, bao gồm quyền dân tộc, giáo dục, việc làm, tự do quan điểm và biểu đạt, hội họp và hiệp hội hòa bình, tự do cư trú và đi lại.
Trong khi công dân Palestine của Israel phải tuân theo một loạt luật phân biệt chủng tộc trong nhiều lĩnh vực như đất đai, việc làm và hoạt động chính trị, một trong những luật phân biệt chủng tộc khét tiếng nhất của Israel là Luật Công dân và Nhập cảnh vào Israel (Điều khoản tạm thời), được ban hành vào năm 2003. Luật cấm cấp quyền công dân hoặc tình trạng cư trú cho người Palestine từ các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, cũng như người Ả Rập từ Iran, Lebanon, Syria và Iraq, những người đã kết hôn với công dân Israel. Theo Adalah, luật này đặc biệt ảnh hưởng đến công dân Palestine của Israel, ngăn cản hàng nghìn gia đình cùng chung sống.
Chế độ phân biệt chủng tộc của Israel được ban hành nhằm chống lại cả công dân Palestine và người Palestine sống dưới sự chiếm đóng của quân đội Israel. Kể từ năm 1967, người Palestine sống ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng phải tuân theo luật quân sự, luật này kiểm soát mọi khía cạnh trong cuộc sống hàng ngày của họ. Người Palestine thường xuyên phải chịu nhiều hình phạt và hạn chế mang tính trừng phạt, bao gồm việc phá hủy nhà cửa, mùa màng cũng như hạn chế quyền tự do đi lại.
Chế độ phân biệt chủng tộc của Israel tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng cũng cho phép giam giữ và bắt giữ một số lượng lớn thường dân Palestine mà không cần buộc tội hay xét xử. Những người Palestine bị giam giữ và luật sư của họ không có quyền biết họ bị buộc tội gì và không có quyền tiếp cận “bằng chứng” quân sự đang được sử dụng để chống lại họ.
Kể từ năm 1967, hơn 40% nam giới Palestine, bao gồm cả trẻ vị thành niên, đã bị Israel giam giữ. Theo Addameer, Hiệp hội Nhân quyền và Hỗ trợ Tù nhân Palestine, “Việc tra tấn về thể xác và tâm lý đối với các tù nhân Palestine và Ả Rập là yếu tố phân biệt sự chiếm đóng của Israel kể từ năm 1967”. Hiệp hội ước tính rằng kể từ khi bắt đầu phong trào intifada đầu tiên của người Palestine vào năm 1987, ít nhất 30.000 người Palestine đã bị Israel tra tấn.
Ngày nay, bản chất phân biệt chủng tộc của nhà nước Israel đã được công nhận trong các báo cáo không chỉ của Liên hợp quốc mà còn của các tổ chức nhân quyền nổi tiếng khác như Tổ chức Ân xá Quốc tế và Tổ chức Theo dõi Nhân quyền. Trong báo cáo năm 2021 Một ngưỡng vượt qua: Chính quyền Israel và tội ác phân biệt chủng tộc và đàn áp Tổ chức Theo dõi Nhân quyền lưu ý rằng Israel đã áp dụng các chính sách “đặc quyền một cách có phương pháp cho người Israel gốc Do Thái và phân biệt đối xử với người Palestine”. Bản tóm tắt của báo cáo giải thích rằng chính quyền Israel “đã tước đoạt, giam giữ, cưỡng bức tách biệt và khuất phục người Palestine vì danh tính của họ ở các mức độ khác nhau” với “sự tước đoạt… nghiêm trọng đến mức chúng dẫn đến tội ác chống lại loài người là chế độ phân biệt chủng tộc và đàn áp”. ”.
Báo cáo năm 2022 của Tổ chức Ân xá Quốc tế về nạn phân biệt chủng tộc của Israel chống lại người Palestine cũng cho thấy rằng “gần như tất cả các cơ quan hành chính dân sự và quân sự của Israel, cũng như các tổ chức chính phủ và bán chính phủ, đều tham gia vào việc thực thi hệ thống phân biệt chủng tộc chống lại người Palestine”.
Theo VNMARXIST.COM
Tags: Tội ác lịch sử, Xung đột Israel - Palestine, Bá quyền phương Tây