Về nhân tố tác động đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Chủ sở hữu quyền lực nhà nước là Nhân dân, chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước là Nhà nước. Do có sự khác biệt về chủ thể nên việc kiểm soát quyền lực là rất cần thiết vì kiểm soát sẽ đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực của Nhà nước đi đúng quỹ đạo và trong phạm vi đã được Nhân dân ủy quyền.

Tác giả: TS. Đào Ngọc Báu, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21(349) – tháng 11/2017.

Lý luận chủ quyền nhân dân (còn gọi là lý luận chủ quyền ở nhân dân) chỉ ra rằng quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân mà không phải do lực lượng siêu nhiên hay bất cứ lực lượng ngoài xã hội nào trao cho Nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền lực này thông qua các cơ quan và nhân viên nhà nước. Như vậy, Nhà nước chỉ là chủ thể thực hiện quyền, Nhân dân mới là chủ thể sở hữu quyền. Nhân dân trao quyền cho Nhà nước thông qua Hiến pháp, điều đó có nghĩa là Hiến pháp ghi nhận việc trao quyền, đồng thời cũng quy định phạm vi hành xử quyền của Nhà nước. Nếu các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước hành xử vượt khỏi phạm vi này thì bị coi là vi hiến, có thể bị truy cứu trách nhiệm, bị bãi nhiệm hoặc thậm chí, bị Nhân dân thu hồi quyền lực. Đồng thời với việc trao quyền, Nhân dân còn quyết định việc thiết kế và phân bổ quyền lực cho các cơ quan nhà nước, từ đó hình thành nên các mô hình tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau, điển hình là hai mô hình quyền lực ưu thế và quyền lực cân bằng. Cuối cùng, sau khi nhận quyền lực từ Nhân dân, các cơ quan và nhân viên nhà nước sẽ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quyền lực trên thực tế. Việc thực hiện này phải đảm bảo quyền lực đi đúng quỹ đạo và không vượt giới hạn đã được Nhân dân ủy thác. Như vậy, để quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế cần phải trải qua một quá trình gồm hai giai đoạn chính: trao quyền và thực hiện quyền. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước cũng phải được thực hiện ở cả hai giai đoạn nói trên, từ khi trao quyền cho đến khi quyền lực được thực hiện trên thực tế.

1. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn trao quyền

Học thuyết chủ quyền nhân dân được J.J. Rousseau đưa ra trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” đã lý giải quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân. Học thuyết này đã đặt nền móng cho sự ra đời lý luận chính thể Hiến pháp (gọi tắt là lý luận Hiến chính), theo đó, pháp luật được coi là khế ước (hợp đồng) giữa các thành viên xã hội, còn Hiến pháp là khế ước giữa Nhà nước và Nhân dân. Ngày nay, đa số các nước đều thừa nhận học thuyết này bằng cách ghi nhận chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Nhân dân trao quyền cho Nhà nước thông qua Hiến pháp nên việc kiểm soát quyền lực trước hết phải được thể hiện ở việc ban hành Hiến pháp. Nói cách khác, ban hành Hiến pháp là nhân tố đầu tiên tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Chủ thể lập hiến là Nhân dân hay Nhà nước? Rõ ràng, Nhân dân với tư cách là chủ sở hữu quyền lực thì phải có quyền kiểm soát quyền lực. Trao quyền cũng chính là phương thức để Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước. Hiến pháp định ra giới hạn để các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước hành xử quyền lực, tuyệt đối không được vượt khỏi khuôn khổ quyền lực đã được ủy thác. Muốn vậy, Nhân dân phải là chủ thể ban hành Hiến pháp. Cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ hoặc các cơ quan khác) có thể thay mặt Nhân dân soạn thảo Hiến pháp, tuy nhiên việc thông qua Hiến pháp phải do toàn dân thực hiện. Nếu Nhà nước thực hiện quyền lập hiến sẽ dẫn đến hiện tượng Nhân dân trao quyền cho Nhà nước và Nhân dân mất quyền. Trong khi đó, lý luận chủ quyền nhân dân khẳng định rằng quyền lực nhà nước là quyền cố hữu của Nhân dân, quyền này không thể mất đi, không thể tước đoạt, do đó, Nhân dân trao quyền cho Nhà nước nhưng phải giữ lại quyền lập hiến, có như vậy Nhân dân mới thực hiện được việc ủy thác quyền lực hoặc thu hồi quyền lực đã ủy thác cho Nhà nước. Với quan điểm này, chúng tôi cho rằng, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 trao cho Quốc hội quyền lập hiến thông qua quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” là chưa phản ánh đúng tinh thần của Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Nên chăng chúng ta trở lại với quy định của Điều 23, Điều 70 Hiến pháp năm 1946 về Nghị viện nhân dân: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”; “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a. Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; b. Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; c. Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Như vậy, Hiến pháp 1946 không trao cho Nghị viện nhân dân quyền lập hiến mà chỉ trao cho cơ quan này quyền tham gia lập hiến (thể hiện ở hoạt động sửa đổi Hiến pháp). Nghị viện nhân dân chỉ tổ chức soạn thảo các điều sửa đổi, còn việc thông qua các điều khoản sửa đổi vẫn do toàn dân quyết định. Chúng tôi cho rằng, quy định của Hiến pháp năm 1946 thực sự đảm bảo được chủ quyền nhân dân và đảm bảo cho Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước ngay từ giai đoạn trao quyền.

Nhân tố thứ hai tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn trao quyền là cách thức thiết kế (cách thức tổ chức) quyền lực nhà nước. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà lựa chọn mô hình tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau. Nghiên cứu tổ chức bộ máy các nước trên thế giới cho thấy, có hai mô hình tổ chức quyền lực phổ biến, đó là quyền lực ưu thế và quyền lực cân bằng.

Mô hình quyền lực ưu thế là trong các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước, có một cơ quan ở vị trí chủ đạo hoặc vị trí ưu thế rõ ràng, cơ quan đó thuộc về trung tâm của quyền lực nhà nước. Mô hình quyền lực ưu thế có hai đặc điểm nổi bật: một là, dung hợp quyền lực giữa Nghị viện (Quốc hội) và cơ quan hành pháp (Chính phủ hoặc Nội các); hai là, luôn có một cơ quan là trung tâm của quyền lực nhà nước. Đặc điểm thứ nhất có nghĩa là Chính phủ do Nghị viện hình thành nên và phụ thuộc vào Nghị viện. Các nước theo chính thể Cộng hòa đại nghị (như Đức), Quân chủ đại nghị (như Anh), Đại hội đại biểu nhân dân (như Trung Quốc, Việt Nam) đều sử dụng mô hình này. Ở những nước như Anh, Đức, Chủ tịch Đảng hoặc liên minh Đảng chiếm đa số trong Nghị viện đồng thời là Thủ tướng, đứng đầu cơ quan hành pháp. Chính phủ ở những nước này chịu trách nhiệm trước Nghị viện, thực chất Chính phủ là một bộ phận của Nghị viện, chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chính sách nên được gọi là chế độ Chính phủ (Nội các) trách nhiệm. Do có sự hậu thuẫn của Đảng chiếm đa số trong Nghị viện nên các chính sách của Chính phủ rất dễ dàng được chấp thuận và trở thành chính sách chung của cả hai cơ quan lập pháp và hành pháp. Ở các nước theo mô hình Đại hội đại biểu Nhân dân (như Trung Quốc, Việt Nam), sự dung hợp quyền lực thể hiện ở chế độ nghị – hành hợp nhất. Điều này có nghĩa là cơ quan đại nghị (Đại hội đại biểu nhân dân hoặc Quốc hội) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hình thành nên các cơ quan nhà nước khác, trong đó có cơ quan hành pháp (Chính phủ). Nói về đặc điểm thứ hai, ở những nước như Anh, Đức, mặc dù Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện nhưng nếu Nghị viện bất tín nhiệm Chính phủ thì Chính phủ có thể thông qua nguyên thủ quốc gia để giải tán Nghị viện. Chính vì vậy, ở những nước này, Chính phủ là cơ quan trung tâm của quyền lực nhà nước. Khác với điều này, Trung Quốc và Việt Nam sử dụng mô hình quyền lực trung tâm thuộc về cơ quan đại nghị, vì vậy Hiến pháp quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, mọi cơ quan nhà nước đều được hình thành và chịu sự giám sát bởi Quốc hội. Thể chế chính trị của Trung Quốc và Việt Nam tương đồng ở chỗ mặc dù Trung Quốc chấp nhận đa đảng nhưng chỉ có Đảng Cộng sản được thừa nhận là đảng chấp chính, các đảng còn lại là đảng tham chính. Việt Nam thừa nhận một đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó dẫn đến loại trừ được yếu tố cạnh tranh giữa các đảng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, người đứng đầu Chính phủ không nhất thiết phải là người đứng đầu đảng cầm quyền như ở các nước theo chế độ đa đảng cạnh tranh.

Mô hình quyền lực cân bằng là chỉ quyền lực nhà nước được phân phối tương đối cân bằng giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước có sự độc lập tương đối với nhau, không cơ quan nào ở vào vị trí chủ đạo hoặc vị trí ưu thế rõ ràng, tức là không tồn tại cái gọi là trung tâm quyền lực nhà nước. Mô hình này cũng có hai đặc điểm cơ bản: một là, có sự phân chia quyền lực rõ ràng, không có sự kiêm nhiệm giữa nhân viên cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp; hai là, không tồn tại cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không tồn tại trung tâm quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước dựa vào Hiến pháp để thực hiện cân bằng quyền lực lẫn nhau. Mô hình quyền lực cân bằng được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập, theo đó quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các quyền này ở vị trí kiểm tra và cân bằng lẫn nhau (check and balance), không quyền nào có tính trội hơn các quyền còn lại. Các nước theo chính thể Cộng hòa tổng thống (điển hình là Mỹ) thường sử dụng mô hình tổ chức quyền lực này.

Trong mô hình quyền lực ưu thế, do có một cơ quan ở vị trí trung tâm của quyền lực làm cho các cơ quan nhà nước không ở vị trí kiểm tra và cân bằng lẫn nhau, do đó việc kiểm soát quyền lực bị hạn chế hơn mô hình quyền lực cân bằng. Tuy nhiên, không thể khẳng định rằng mô hình quyền lực cân bằng hiệu quả hơn mô hình quyền lực ưu thế bởi vì việc ban hành chính sách trong mô hình quyền lực cân bằng chậm chạp hơn, tốn chi phí hơn mô hình quyền lực ưu thế do các cơ quan nhà nước có thể lợi dụng việc ban hành chính sách để tạo thế cân bằng và mặc cả lẫn nhau. Chính vì vậy, để đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước không nhất thiết phải áp dụng mô hình tam quyền phân lập, thay vào đó có thể kết hợp những hạt nhân hợp lý của cả hai mô hình nói trên để hình thành nên cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu nhưng vẫn đảm bảo thuận lợi và hiệu quả kinh tế trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Nước ta sử dụng mô hình quyền lực ưu thế với việc xác định Quốc hội là trung tâm của quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Như vậy, Quốc hội có thể thực hiện việc kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan nhà nước khác, nhưng các cơ quan nhà nước khác rất khó kiểm soát việc thực hiện quyền lực của Quốc hội. Nói cách khác, kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay theo cơ chế một chiều. Trong khi không thể khẳng định Quốc hội luôn đúng thì việc bỏ ngỏ kiểm soát Quốc hội là điều cần khắc phục. Chúng ta có thể tham khảo mô hình tổ chức quyền lực của Hiến pháp năm 1946, theo đó, nên trao cho Chủ tịch nước quyền kiểm soát này. Hiến pháp năm 1946 xác định Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ, do Nghị viện bầu ra trong số các nghị viên nhưng không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, trừ trường hợp Chủ tịch nước phạm tội phản quốc. Quy định này vừa đảm bảo nguyên tắc quyền lực ưu thế thuộc về Nghị viện vừa đảm bảo khả năng kiểm soát của Chính phủ đối với Nghị viện. Một trong những cách thức kiểm soát quyền lực đó là Chủ tịch nước có quyền phủ quyết luật do Nghị viện ban hành. Thông qua quyền phủ quyết, Chủ tịch nước có thể kịp thời giúp Nghị viện khắc phục những hạn chế trong các đạo luật đã thông qua hoặc sửa đổi những quy định pháp luật không phù hợp với chính sách và chủ trương điều hành của Chính phủ. Phủ quyết không phải là phủ nhận sạch trơn mà là tạo ra sự thống nhất và phối hợp trong ban hành và thực hiện chính sách của các cơ quan nhà nước.

Tóm lại, tam quyền phân lập không phải là chìa khóa vạn năng cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Mô hình quyền lực ưu thế vẫn có thể thực hiện kiểm soát quyền lực miễn là chúng ta biết điều chỉnh (tăng, giảm, thu hẹp, mở rộng) quyền của các cơ quan nhà nước và thiết kế các chức danh lãnh đạo cũng như xác định vị trí của các cơ quan nhà nước một cách hợp lý, khoa học.

2. Các nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn thực hiện quyền

Sau khi Nhân dân trao quyền cho Nhà nước, quyền lực này sẽ được thực hiện bởi các cơ quan và nhân viên nhà nước. Hiện tượng lạm quyền và vượt quyền chủ yếu xảy ra trong giai đoạn này. Chính vì vậy, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện quyền đi đúng quỹ đạo, trong phạm vi Nhân dân ủy thác là rất cần thiết. Đó là lý do vì sao cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Hoạt động kiểm soát quyền lực trong giai đoạn này có thể được thực hiện bởi Nhân dân hoặc bởi chính các cơ quan nhà nước.

Nhân tố thứ nhất tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn thực hiện quyền là hoạt động giám sát quyền lực nhà nước. Giám sát quyền lực nhà nước là một quá trình hoạt động có mục đích bằng cách sử dụng các biện pháp giám sát phù hợp tác động vào các cơ quan nắm giữ các quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước tuân thủ đúng pháp luật trong khuôn khổ phạm vi, quyền hạn dược trao[1]. Thông qua giám sát quyền lực nhà nước, Nhân dân sẽ phát hiện ra những cơ quan hoặc nhân viên nhà nước không hoàn thành nhiệm vụ hoặc thực hiện vượt quyền, lạm quyền, khi đó Nhân dân có thể hủy bỏ sự ủy quyền đã trao thông qua cơ chế bãi nhiệm.

Theo quy định của Điều 40 Luật Tổ chức Quốc hội 2014, “đại biểu Quốc hội (ĐBQH) không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm; trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm ĐBQH thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành; trong trường hợp cử tri bãi nhiệm ĐBQH thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo trình tự do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quy định”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, do trình tự cử tri bãi nhiệm tư cách ĐBQH chưa được quy định cụ thể nên các trường hợp bãi nhiệm tư cách ĐBQH gần đây (như trường hợp bà Đặng Thị Hoàng Yến, Châu Thị Thu Nga) đều do Quốc hội thực hiện. Việc bãi nhiệm ĐBQH thời gian qua chủ yếu được thực hiện theo trình tự ba bước: (i) Mặt trận tổ quốc Việt Nam nơi hiệp thương giới thiệu đại biểu đó ứng cử gửi văn bản đề nghị tới UBTVQH; (ii) UBTVQH đề nghị Quốc hội xem xét tư cách ĐBQH; (iii) Quốc hội thảo luận, bỏ phiếu và thông qua nghị quyết bãi nhiệm tư cách ĐBQH của người được đề nghị. Như vậy, Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội đều bỏ ngỏ quy định về trình tự thực hiện quyền bãi nhiệm của cử tri đối với ĐBQH; đồng thời UBTVQH không kịp thời ban hành hướng dẫn về vấn đề này, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc Nhân dân giám sát quyền lực nhà nước. Về vấn đề này, một lần nữa chúng ta có thể tham khảo Hiến pháp năm 1946. Điều 41 Hiến pháp năm 1946 quy định “Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh, thành phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ chức”. Như vậy, Hiến pháp năm 1946 đã trao cho nhóm cử tri quyền trực tiếp tham gia bãi nhiệm đại biểu dân cử.

Nhân tố thứ hai tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn thực hiện quyền là hoạt động bảo hiến. Hoạt động bảo hiến là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bởi lẽ Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất, ghi nhận sự trao quyền của Nhân dân cho Nhà nước, mọi vi phạm Hiến pháp đều phải được xử lý thì mới đảm bảo quyền lực của Nhân dân được tôn trọng trên thực tế. Để hoạt động bảo hiến có hiệu quả thì việc thành lập cơ quan bảo hiến là điều cần thiết. Sự hiện diện của cơ quan này góp phần đảm bảo cho các quy định của Hiến pháp được thực hiện nghiêm chỉnh, xử lý kịp thời hành vi vi hiến.

Ngoài ra, phạm vi và phương thức bảo hiến cũng có tác động đáng kể đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Việc thừa nhận phạm vi bảo hiến rộng, hẹp sẽ tác động đến mức độ bảo đảm thực hiện các quy định của Hiến pháp trên thực tế. Phạm vi bảo hiến theo nghĩa rộng không chỉ hạn chế ở việc thẩm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm cả việc phán quyết tính hợp hiến của các hành vi của các cơ quan nhà nước, công chức, tổ chức xã hội cũng như hành vi của cá nhân xâm phạm quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Ngoài ra, tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với địa phương cũng cần được xem phạm vi bảo hiến.

Như vậy, nếu chỉ bó hẹp bảo hiến trong phạm vi thẩm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ còn rất nhiều loại vi hiến không được xử lý. Kết quả là mặc dù ý chí của Nhân dân đã được thể hiện trong Hiến pháp nhưng không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ trên thực tế.

Đối với phương thức bảo hiến, có thể áp dụng cơ chế tiền kiểm hoặc hậu kiểm. Cơ chế tiền kiểm cho phép cơ quan bảo hiến thẩm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành. Cơ chế hậu kiểm cho phép cơ quan bảo hiến xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật sau khi ban hành hoặc tính hợp hiến của các hành vi của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước sau khi những hành vi ấy đã được thực hiện. Ngoài ra, trong bảo hiến còn có phương thức thẩm tra cụ thể và thẩm tra trừu tượng. Thẩm tra cụ thể là trường hợp cơ quan nhà nước, cá nhân được nhà nước trao quyền trong quá trình thực hiện pháp luật phát hiện văn bản pháp luật có dấu hiệu vi hiến thì đề nghị cơ quan bảo hiến xem xét và ra phán quyết về tính hợp hiến của văn bản đó. Thẩm tra trừu tượng là trường hợp cơ quan bảo hiến chủ động thẩm tra tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật mà không cần phải xác định văn bản đó đang được áp dụng vào trường hợp cụ thể nào. Trên thực tế, Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất nên việc càng mở rộng phạm vi và phương thức bảo hiến sẽ càng làm cho các quy định của Hiến pháp được thực hiện đầy đủ trên thực tế.

Tóm lại, kiểm soát quyền lực nhà nước có liên quan mật thiết đến việc trao quyền và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Các hoạt động này đều xoay quanh Hiến pháp, do đó kiểm soát quyền lực nhà nước không gì khác là kiểm soát Hiến pháp, làm cho Hiến pháp được ban hành và thực thi trên cơ sở ý chí của Nhân dân. Muốn vậy, Nhân dân phải là chủ thể của quyền lập hiến và là chủ thể giám sát thực hiện quyền lực nhà nước. Thiết kế vận hành quyền lực nhà nước cho dù là tập quyền hay phân quyền đều phải đảm bảo giữa các cơ quan nhà nước có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh kiểm soát một chiều. Có như vậy mới đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước đi đúng quỹ đạo và trong phạm vi ủy quyền. Cuối cùng, Nhân dân phải có khả năng thu hồi quyền lực đã trao nếu người được trao quyền không còn xứng đáng và không được tín nhiệm. Những nhân tố này nếu được quan tâm và nhận thức đầy đủ sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.

————————-

Chú thích:

[1] Trương Thị Hồng Hà (chủ biên), Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

Theo LAPPHAP.VN

Tags: , ,