Vấn đề phân định chủ quyền biển giữa Việt Nam và Thái Lan

Ngày 9/8/1997, tại Bangkok Thái Lan, Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và đồng nghiệp, Ngài Prachuab Chaiyasan, Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Thái Lan đã đặt bút ký Hiệp định về biên giới biển Việt Nam – Thái Lan, chấm dứt một phần tư thế kỷ tranh cãi giữa hai nước về giải thích và áp dụng luật biển trong phân định vùng chồng lấn Việt Nam – Thái Lan.

Vấn đề phân định chủ quyền biển giữa Việt Nam và Thái Lan

Vịnh Thái Lan (còn gọi là vịnh Xiêm) là một biển nửa kín, với diện tích khoảng 300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan (1.560 km), Việt Nam (230 km), Malaysia (150 km) và Campuchia (460 km). Vịnh thông ra Biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215 hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là 385 km (208 hải lý).

Do đó, căn cứ vào các quy định mới Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, toàn bộ Vịnh là đối tượng của các yêu sách mở rộng quyền tài phán của các quốc gia ven biển ra tới hạn 200 hải lý. Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện, cùng có quyền mở rộng vùng biển của mình, do đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2.

Trong Vịnh, Thái Lan là nước đầu tiên đã thăm dò và khai thác dầu khí. Ngày 18/5/1973, Thái Lan đơn phương vạch ranh giới ngoài của thềm lục địa Thái Lan trong Vịnh và công bố các tọa độ của con đường này. Ranh giới này là đường trung tuyến giữa một bên là các đảo quan trọng của Thái Lan như Ko Phangun, Ko Samui và bờ biển Thái Lan… và bên kia là các đảo quan trọng và bờ biển của các quốc gia liên quan như đảo Rong, Xalem của Campuchia, Phú Quốc, mũi Cà Mau của Việt Nam…

Đây là yêu sách tối đa của Thái Lan, khai thác việc xác định các “hoàn cảnh đặc biệt” theo Điều 6 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa mà Thái Lan là một bên phê chuẩn. Để vạch ranh giới này, Thái Lan đã bỏ qua các đảo xa bờ như đá Ko Kra, Ko Losin của Thái Lan, đảo Poulo Wai của Campuchia và quần đảo Thổ Chu của Việt Nam.

Đường yêu sách do chính quyền Việt Nam cộng hoà đưa ra năm 1971 được coi là đường trung tuyến được vạch giữa một bên là Hòn Khoai, Thổ Chu và Poulo Wai và bên kia là bờ biển Thái Lan và đảo Ko Phangun, không tính đến các đảo đá nhỏ Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan. Sở dĩ các bên có yêu sách khác nhau là do lập trường có tính đến vị trí của các đảo, quần đảo Thổ Chu nằm cách đảo Phú Quốc 55 hải lý trong khi các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý tương ứng. Đảo xa bờ tuỳ theo vị thế của nó đều có hiệu lực trong phân định ranh giới biển giữa hai nước có bờ biển đối diện.

Trong thời gian từ năm 1977 đến năm 1982, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua một loạt các văn kiện pháp lý liên quan đến phần biển Việt Nam trong Vịnh. Đó là Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam và Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia ngày 7/7/1982.

Trong các văn kiện này, Việt Nam đã không vạch một ranh giới chính thức nào cho thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Việt Nam nhấn mạnh sẽ cùng các quốc gia liên quan thông qua thương lượng trực tiếp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.

Ngày 22/11/1982, Bộ Ngoại giao Thái Lan tuyên bố phản đối tuyên bố đường cơ sở của Việt Nam và “bảo lưu mọi quyền mà luật quốc tế giành cho mình liên quan đến các vùng biển này và vùng trời trên đó”.Ngày 19/8/1992, Thái Lan bổ sung các đá Ko Kra (8023’49” B 1000 44′ 13” Đ) và Ko Losin (70 10′ 14” B, 1010 59′ 59” Đ) vào hệ thống đường cơ sở của tuyên bố ngày 11/6/1970. Bangkok dường như đã đòi hỏi phải tính đến các đảo đá nhỏ chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không người ở và không có một đời sống kinh tế riêng này trong phân định, trong khi lại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của các đảo xa bờ thuộc quốc gia khác như đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 – 600 dân, xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.

Trong vịnh Thái Lan, các phay chạy theo hướng Bắc – Nam tính từ Tây sang Đông bao gồm: bồn Champon, thềm Samui, bồn Tây, bồn Kra, đứt gãy ngầm Ko Kra và rãnh sâu Pattani có độ dày trầm tích 6 km được coi là khu vực triển vọng có dầu. Đường yêu sách năm 1971 do chính quyền Việt Nam Cộng hoà vạch bao gồm phần lớn phía Bắc và rìa ngoài của bồn Mã Lai, trong khi yêu sách của Thái Lan bao phủ phần Tây – Bắc. Phía Tây các lô 15, 16 và cấu trúc B, nơi có những phát hiện lớn về khí đều nằm chồng lên vùng Việt Nam yêu sách.

Do vậy, các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong các lô này bị tạm thời gác lại. Nhằm khai thông quá trình thăm dò và khai thác dầu khí, Thái Lan đề nghị mở đàm phán với Việt Nam về vấn đề phân định biển. Thông cáo chung Việt Nam – Thái Lan ngày 12/1/1978 thể hiện hai nước đã đồng ý đàm phán về biên giới biển giữa họ.

Tuy nhiên, sự bất đồng về việc giải quyết cuộc xung đột Campuchia đã gác lại vấn đề.Tháng 6/1990, Thái Lan cấp đặc nhượng 8.000 km2 cho CFP – Total, bao gồm lô Total-1-B14, Total-1-B15 và Total-1-B16 nằm chồng lên các lô 40, 46, 51, 54, 55 và 58 mà Việt Nam đã cấp cho Petrofina (Bỉ) vào cùng thời gian đó.

Tháng 6/1993, Total đã khoan giếng Ton Sak – 1, một cấu tạo nằm ở phía Đông của mỏ Bongkot và nằm sát đường yêu sách 1971 của Việt Nam. Trong năm 1994, tổ hợp công ty này đã khoan tiếp các giếng Ton Sak – 3, 4, 5, gặp khí condensat. Tranh chấp giữa hai nước lại đẩy hai bên một lần nữa tới bàn đàm phán. Hơn nữa, sự thay đổi tình hình chính trị trong khu vực và nhu cầu khai thác tài nguyên thiên nhiên đặt ra những vấn đề cần giải quyết thông qua một giải pháp cho tranh chấp.

Ngày 15/11/1990, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Thái Lan trong chuyến thăm chính thức Việt Nam đã đề nghị với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một sự hợp tác chung phát triển dầu khí trong khu vực tranh chấp. Chuyến thăm Việt Nam ngày 17/9/1991, Thủ tướng Vương quốc Thái Lan cũng biểu lộ mong muốn giải quyết vấn đề phân định thềm lục địa giữa hai nước.

Tháng 10 năm 1991, trong lần gặp đầu tiên tại Bangkok Thái Lan của Uỷ ban hỗn hợp Việt – Thái về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật, hai bên đã thông qua biên bản liên quan đến vấn đề phân định các vùng biển như sau:

a) Hai bên cần hợp tác xác định ranh giới các vùng biển do hai nước yêu sách;
b) Hai bên cần cố gắng phân định biên giới biển trong khu vực chồng lấn giữa hai nước; và
c) Một sự phân định như vậy không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách.

Hai bên cũng đồng ý rằng, trong khi chờ đợi một sự phân định như vậy, không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực chồng lấn cho bất kỳ nhà thầu nào. Hai bên sẽ thông báo cho nhau không có một hoạt động phát triển hay đặc nhượng nào trong khu vực Việt Nam yêu sách chồng lên vùng phát triển chung giữa Thái Lan và Malaysia.Trong bối cảnh đó, phía Thái Lan đề nghị trong trường hợp các cố gắng nêu ở điểm (b) thất bại thì hai bên có thể xem xét áp dụng khái niệm vùng phát triển chung phía Thái Lan.Phân định vùng đặc quyền kinh tế cũng nằm trong mối quan tâm của chính phủ hai nước. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp của ngư dân Thái Lan trong các vùng biển của các nước láng giềng đã gây tổn hại không chỉ tới nguồn tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia này mà còn cả thanh danh của Chính phủ Thái Lan.

Trong quan hệ với Việt Nam, Thái Lan đã nhiều lần thể hiện nguyện vọng ký kết một hiệp định về nghề cá và xác định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế. Đó là những biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn nạn đánh bắt cá bất hợp pháp.

Ngày 23/2/1988, Vương quốc Thái Lan tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế của mình. Tuyên bố này không đưa ra một ranh giới thật sự nào của vùng đặc quyền kinh tế Thái Lan. Như vậy, giữa Thái Lan và Việt Nam có hai vấn đề cần giải quyết, đó là phân định thềm lục địa và phân định vùng đặc quyền kinh tế. Vịnh Thái Lan không sâu và có bề rộng không vượt quá 300 hải lý nên bản thân nó đã tạo ra một hoàn cảnh hữu quan. Đường phân chia sẽ được xác định chủ yếu căn cứ vào các hoàn cảnh địa lý.

Do được đánh giá có tiềm năng dầu khí trên một thềm lục địa duy nhất trong Vịnh, hai bên hữu quan, Việt Nam và Thái Lan, đều có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc sản xuất dầu khí, có cùng mối quan tâm giành được phần thềm lục địa nhiều nhất có thể. Hơn nữa, các bên không quên giành được sự kiểm soát tối đa cột nước phía trên thềm lục địa phân chia, một vùng biển quan trọng đối với công nghiệp đánh bắt cá. Rõ ràng vùng đặc quyền kinh tế đóng một vai trò không thể bỏ qua trong phân định thềm lục địa.

Ngày 7 – 10/9/1992, cuộc họp cấp chuyên viên đầu tiên về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được tiến hành tại Bangkok. Phía Việt Nam đề nghị phân chia vùng chồng lấn hình thành giữa hai đường 1971 và 1973, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt với Điều 74 và 83 của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 về phân định theo nguyên tắc công bằng.

Phía Thái Lan đòi hỏi lấy đường 1973 làm cơ sở phân định, đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh đường 1971. Nói cách khác, Thái Lan không chấp nhận sự tồn tại vùng chồng lấn giới hạn bởi các đường 1971, 1973 và hiệu lực của đảo Thổ Chủ trong phân định.

Cuộc họp tiếp theo tại Hà Nội từ ngày 20 – 23/5/1993, nhằm thúc đẩy đàm phán, phía Việt Nam đã đề nghị chia 50/50 vùng chồng lấn 1971 – 1973, nhưng phía Thái Lan vẫn giữ lập trường cũ.Tới vòng đàm phán III từ ngày 10 – 13/1/1995, phía Thái Lan đã thể hiện có chuyển biến tích cực khi không bác bỏ đường 1971, và nêu nguyên tắc “mọi đường phân chia phải phản ánh một giải pháp công bằng” – nguyên tắc mà phía Việt Nam đã đề cập đến ngay từ đầu.

Như vậy, hai bên đã thống nhất cần áp dụng nguyên tắc công bằng trong phân định để đi đến một giải pháp công bằng. Hai bên đều đồng ý áp dụng phương pháp trung tuyến trong phân định. Tuy nhiên, hai bên lại có bất đồng sâu sắc trong việc giải thích thế nào là công bằng, cần phải tính đến các yếu tố công bằng nào trong phân định và đường trung tuyến được tính giữa bờ và bờ hay giữa đảo và đảo. Phân định thềm lục địa Việt Nam – Thái Lan chính là giải quyết sự không thống nhất giữa các bên về xác định hiệu lực của các đảo. Điều này thể hiện cuộc đấu tranh pháp lý dai dẳng giữa các bên trong suốt các vòng đàm phán tiếp theo: vòng IV từ ngày 5 – 9/6/1995, vòng V từ ngày 28 – 31/8/1995.

Phía Việt Nam, căn cứ Điều 121 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 cho rằng, quần đảo Thổ Chu mà đảo lớn nhất là đảo Thổ Chu có diện tích khoảng 10 km2 và 500 – 600 dân xứng đáng phải có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan chỉ nhô trên mặt nước 1,5 m, không có người ở và không có một đời sống kinh tế riêng, nên không thể được coi như đảo Thổ Chu. Các đá này nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý.

Phía Thái Lan cho rằng vị trí quần đảo Thổ Chu, nằm cách đảo Phú Quốc 55 hải lý, tạo một hiệu lực sai lệch đường biên giới biển có thể. Thái Lan công nhận đảo có quyền có hiệu lực nhưng không phải là một hiệu lực toàn phần. Theo Thái Lan, vấn đề xác định hiệu lực đảo trong phân định còn rất khác nhau, chưa có một tiêu chuẩn thống nhất, thể hiện qua thực tiễn quốc tế và các phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế. Thái Lan đề nghị cho đảo Thổ Chu hưởng 25 – 30% hiệu lực và chấp nhận dành tối đa cho phía Việt Nam 30% diện tích vùng chồng lấn.

Tuy nhiên tới vòng VI, những biến chuyển chính trị trên chính trường Thái Lan đã tác động đến tình hình đàm phán.

Sau khi quan hệ giữa hai nước phát triển thêm với chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Thái Lan tháng 3 năm 1997 và kết quả kỳ họp lần thứ nhất của Uỷ ban Hỗn hợp Việt – Thái về hợp tác kinh tế cũng như thiết lập trật tự trên biển và nghề cá, đàm phán đã tiến triển trở lại. Trong cuộc đàm phán nối lại vòng VIII tại Đà Lạt, từ ngày 30/5 – 3/6/1997, hai bên đã đồng ý giải quyết đồng thời cả hai vấn đề phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế bằng một đường ranh giới duy nhất.

Khu vực phân định mà Hiệp định ngày 9/8/1997 điều chỉnh được xác định trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không nên bao gộp các vùng chồng lấn do bất kỳ một nước thứ ba nào yêu sách. Khu vực này được giới hạn ở phía Bắc và phía Nam bằng các đường yêu sách 1971, 1973. Phía Tây được giới hạn bởi đường “dàn xếp tạm thời” giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia năm 1991 trong một tuyên bố chung thoả thuận hai bên không tiến hành bất kỳ hoạt động phát triển dầu khí nào ở ngoài đường trung tuyến giữa Thổ Chu và Poulo Wai cho đến khi có một giải pháp cuối cùng. Phía Đông được giới hạn bởi ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan – Malaysia năm 1979.

Tuy nhiên Việt Nam bảo lưu quyền của mình trong vùng chồng lấn ba bên Việt Nam – Thái Lan – Malaysia. Việc lấy ranh giới khu vực phát triển chung Thái Lan – Malaysia làm ranh giới cho vùng cần giải quyết chỉ có ý nghĩa là mọi giải pháp giữa Việt Nam và Thái Lan không gây ảnh hưởng gì tới yêu sách của Malaysia, bên thứ ba, trong vùng này.Sau chín vòng đàm phán, hai bên đã đi đến thoả thuận:

1. Đường phân chia thoả thuận là một đường thẳng kẻ từ điểm C (70 49’0″ B, 103002’30” Đ), tới điểm K (8046’54″B; 102012’11″Đ). Điểm C chính là điểm nhô ra nhất về phía Bắc của khu vực phát triển chung Thái Lan – Malaysia được xác định rõ trong bản ghi nhớ ngày 21/2/1979, và trùng với điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa của Malaysia năm 1979. Điểm K nằm trên đường thẳng cách đều Thổ Chu và Poulo Wai, đây là đường “dàn xếp tạm thời” Việt Nam – Campuchia năm 1991. Với hiệu lực 32,5% của đảo Thổ Chu, đường phân định thoả thuận này trên thực tế cho thấy Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích vùng chồng lấn.

2. Đường biên giới biển CK tạo thành biên giới phân định thềm lục địa giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan, đồng thời cũng là đường phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Mỗi bên ký kết đều thừa nhận các quyền chủ quyền và tài phán của bên kia trên vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nằm trong phạm vi đường biên giới biển được xác lập bởi Hiệp định.

3. Trong trường hợp có cấu trúc dầu hoặc khí duy nhất hoặc mỏ khoáng sản có tính chất bất kỳ nào nằm vắt ngang đường biên giới thì hai bên phải có trách nhiệm trao đổi thông tin, cùng tìm kiếm thoả thuận sao cho các cấu trúc hoặc mỏ này được khai thác một cách hiệu quả nhất và chi phí cũng như lợi tức từ việc khai thác sẽ được phân chia một cách công bằng.

4. Hai bên cũng cam kết sẽ tiến hành đàm phán với Malaysia về khu vực yêu sách thềm lục địa chồng lấn giữa ba nước, nằm trong vùng phát triển chung Thái Lan – Malaysia được xác định bởi Bản ghi nhớ giữa Vương quốc Thái Lan và Malaysia về thành lập cơ quan quyền lực chung khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực thềm lục địa xác định của hai nước trong vịnh Thái Lan, ký tại Chiềng Mai ngày 21/2/1979.

Hiệp định ngày 9/8/1997 đã mở ra một trang mới không chỉ trong lịch sử quan hệ giữa Việt Nam – Thái Lan mà cả trong lịch sử phân định vịnh Thái Lan. Hiệp định bao gồm những điểm nổi bật sau:

– Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái Lan. Ngoài tranh chấp giữa Việt Nam và Thái Lan, vẫn tồn tại vấn đề phân định biển giữa Việt Nam – Campuchia, Campuchia – Thái Lan, Việt Nam – Thái Lan – Malaysia và Việt Nam – Campuchia – Thái Lan.

– Đây là hiệp định về phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực, đồng thời cũng là hiệp định về phân định toàn bộ các vùng biển đầu tiên trong khu vực. Trong khu vực, đã có Hiệp định về phân định thềm lục địa giữa Indonesia và Malaysia ngày 27/10/1969 và ngày 21/12/1971, phân định thềm lục địa giữa Indonesia và Thái Lan ngày 17/12/1971 và phân định thềm lục địa giữa Thái Lan và Malaysia ngày 21/12/1971; Bản ghi nhớ Thái Lan – Malaysia ngày 21/2/1979 về thiết lập Cơ quan quyền lực chung nhằm khai thác tài nguyên đáy biển trong khu vực xác định trong vịnh Thái Lan, Hiệp định về khai thác chung Việt Nam – Malaysia ngày 5/6/1992, nhưng đây là lần đầu tiên có một hiệp định phân chia cả thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước thành viên ASEAN có tranh chấp biển.

– Hiệp định này đã khẳng định xu thế có thể thoả thuận về một đường biên giới biển duy nhất phân định đồng thời thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong các vùng biển không rộng quá 400 hải lý giữa các bờ biển đối diện nhau.

– Cùng với việc ký kết Hiệp định về phân định, hai Chính phủ còn đạt được thoả thuận về hợp tác bảo đảm an ninh trên biển và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh thông qua việc tổ chức tuần tra chung giữa Hải quan Thái Lan và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; tổ chức tuyên truyền, giáo dục ngư dân hai nước tôn trọng quy định về đánh cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật.

– Quá trình yêu sách kéo dài từ những năm 1971, 1973, nhưng quá trình đàm phán để đạt được hiệp định giải quyết vấn đề đã được tiến hành trong một thời gian ngắn. Trong vòng năm năm, từ 1992 đến 1997, với chín vòng đàm phán, hai bên đã nhanh chóng đi đến kết quả cuối cùng, thể hiện thiện chí của cả hai nước Việt Nam – Thái Lan, tinh thần hợp tác phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Nên nhớ Thái Lan và Malaysia đã mất hơn 10 năm đàm phán để tìm một giải pháp cho tranh chấp thềm lục địa giữa họ trên vùng chồng lấn rộng 7.250 km2. Năm 1979, họ mới đạt được một thoả thuận về thành lập Cơ quan quyền lực chung phát triển chung vùng chồng lấn đó và phải tới năm 1992 cơ quan này mới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Việc giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác vấn đề phân chia vùng chồng lấn đã thể hiện quyết tâm của hai nước trong khu vực trong việc thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, mà Việt Nam và Thái Lan đều là các nước thành viên.

– Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được với các nước láng giềng. Việt Nam là nước có số lượng các tranh chấp biển liên quan nhiều nhất trong số các tranh chấp biển của khu vực. Hiệp định ngày 26/7/1997 có tác động nhất định thúc đẩy các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp biển giữa Việt Nam với các nước hữu quan trên tinh thần khoản 7, Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

– Hiệp định phân định biển này tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước Việt Nam – Thái Lan, góp phần đảm bảo ổn định an ninh trật tự trên biển, đẩy mạnh sản xuất dầu khí giữa hai nước. Nó mãi mãi là một mốc son trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.

>> Trận hải chiến giữa cảnh sát biển Việt Nam với hải quân Thái Lan năm 1993
.

Theo CPV.ORG.VN

Tags: , ,