Vài nét về chính sách an sinh xã hội ở Phần Lan

An sinh xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia và được coi là một công cụ để xây dựng một xã hội phát triển. Mô hình an sinh xã hội Bắc Âu, trong đó có Phần Lan, thường được nhắc tới như sự cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.

Vài nét về chính sách an sinh xã hội ở Phần Lan

Hướng tới hệ thống an sinh xã hội “bao bọc” người dân

Không giống như hệ thống an sinh xã hội của Mỹ và phần lớn các nước Tây Âu, hệ thống an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu bao bọc toàn bộ dân cư, và đặc biệt, không giới hạn đối với những nhóm người yếu thế không có khả năng tự chăm sóc bản thân mình. Chẳng hạn, tất cả mọi người đến một độ tuổi nhất định đều có lương hưu mà không phụ thuộc vào việc họ có tích lũy cho kế hoạch lương hưu hay không; hoặc kế hoạch chăm sóc sức khỏe quốc gia dựa trên nhu cầu chăm sóc y tế nhiều hơn là mục tiêu tài chính. Thêm vào đó, công dân của các nước Bắc Âu có quyền pháp lý đối với lợi ích được cung cấp. Chính sách này được thiết kế để đáp ứng như một trách nhiệm tập thể nhằm bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống xứng đáng.

Hướng tới mô hình an sinh xã hội Bắc Âu, mà theo đánh giá của nhà xã hội học Phần Lan Erisk Allardt, là khá toàn diện, hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh và được đánh giá là một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới.

Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, nhưng do khi đó còn là nước nghèo nên đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.

Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP, so với Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy tương ứng là 35%, 30% và 22% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương – các chính quyền tự trị – cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp cao.

Có thể nói, đến thập niên 80 – chỉ hơn 30 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, từ một nước còn nghèo, hệ thống an sinh xã hội Phần Lan đã có những tiến bộ vượt bậc để đạt tiêu chuẩn an sinh xã hội rất cao của các nước Bắc Âu. Các đảng chính trị lớn ở đất nước này đều cam kết duy trì mô hình an sinh xã hội này, góp phần đưa xã hội Phần Lan phát triển vững chắc hơn trong những thập niên tiếp theo.

Hệ thống an sinh xã hội Phần Lan cung cấp cho người dân những gì?

Các chương trình an sinh xã hội: Giống như các nước Bắc Âu khác, Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhậpđược phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội.

Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày.

Năm 1961, Luật Lương hưu cho người lao động được ban hành để bổ sung cho Kế hoạch lương hưu quốc gia, vốn phù hợp với người dân nông thôn (chiếm đa số cho tới thập niên 60), nhưng không đủ cho người dân thành phố. Trong thập niên 70, các kế hoạch lương hưu liên quan đến lương bắt buộc khác được ban hành thành luật cho những lao động tạm thời, cho những người tự kinh doanh… Cuối thập niên 70, một kế hoạch lương hưu bổ sung được ban hành cho nông dân. Vào năm 1986, những người làm nghề tự do chẳng hạn như nhà văn, diễn viên cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này. Những kế hoạch lương hưu này do chủ lao động, tư nhân hoặc xã hội chi trả. Viện An ninh lương hưu Trung ương chịu trách nhiệm báo cáo về tình trạng việc làm và thu nhập.

Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có 1 con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động.

Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5%.

Trợ cấp gia đình được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng.

Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó.

Dịch vụ chăm sóc trẻ em: theo luật, các trung tâm chăm sóc cộng đồng cho các gia đình Phần Lan là hình thức phổ biến với mức phí thấp. Chất lượng cao của các trung tâm này (nhân viên được đào tạo tại các trường đại học về giáo dục trẻ em) làm cho phụ nữ Phần Lan yên tâm làm việc hơn.

Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp. Đạo luật này cũng phổ biến ở các nước Bắc Âu.

Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả… được cung cấp miễn phí.

Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Giữa thập niên 80, khoản chi phí dành cho chăm sóc sức khỏe cơ bản là 40%, so với 10% năm 1972. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sỹ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sỹ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sỹ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp, chỉ có 6,5 trên 1.000 trẻ. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác.

Mặc dù việc duy trì một hệ thống phúc lợi cao, qua một thời gian thực hiện cũng bộc lộ những mặt trái của nó, tuy nhiên trong thế giới hiện nay, những ưu việt mà hệ thống an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu, trong đó có Phần Lan mang lại cho người dân, góp phần tạo nên một môi trường sống khá thanh bình nơi đây, là những kinh nghiệm quý, rất đáng tham khảo.

Theo TẠP CHÍ CỘNG SẢN

Tags: , , ,