Tư tưởng ‘Đại thống nhất’ và ‘Đại nhất thống’ của Trung Quốc

Lịch sử Trung Quốc cho thấy từ xưa tới nay các chính trị gia nước này dù thuộc ý thức hệ nào cũng đều theo đuổi mục tiêu thực hiện một quốc gia “Đại thống nhất” và “Đại nhất thống”.

Tư tưởng ‘Đại thống nhất’ và ‘Đại nhất thống’ của Trung Quốc

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành.

Đại thống nhất (大統一, Grand unification) là nói sự thống nhất lãnh thổ quốc gia, và các địa phương trong một nước đều phục tùng sự lãnh đạo của một chính quyền trung ương. Đại nhất thống (大一統, Great unity) là nói trong một quốc gia phải thực hiện tập trung thống nhất cao độ về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, không cho phép có ý kiến khác với chủ trương đường lối của chính quyền trung ương.

Hai khái niệm trên tuy khác nhau nhưng đã hòa trộn thành một thứ tư tưởng mọc rễ trong giới chính trị gia Trung Quốc, triển khai thực tế thành hành động bành trướng lãnh thổ trên đất, trên biển với tham vọng và quy mô khiến thế giới phải cảnh giác. Thứ đặc sản tư tưởng này sinh ra tại một đất nước đông dân, đã tồn tại mấy nghìn năm nay và có lẽ còn lâu nữa.

Người Trung Quốc thường ca ngợi Tần Thủy Hoàng có công lớn chinh phục, thống nhất 6 nước trong thời gian 230-221 TCN, tuy rằng thực ra đó là sự xâm chiếm, sáp nhập 6 nước khác vào nước Tần thành một quốc gia lớn. Tiếp đó vua Tần là Doanh Chính xưng Hoàng Đế, hiệu Tần Thủy Hoàng, lần đầu tiên lập nên ở Trung Quốc một đế chế có vị trí quốc tế. Có lẽ vì thế mà phương Tây gọi người Trung Quốc là “Người Tần” (Chin-ese), chứ không gọi “Người Hán” (Han-ese), bắt nguồn từ chỗ chữ “Tần” tiếng Anh thời xưa đọc “Chin”.

Dường như giới chính trị gia Trung Quốc xưa nay đều ưa chinh phục, thống nhất nước khác vào nước mình và thực hành Đại nhất thống. Đường lối Đại thống nhất và Đại nhất thống này từng phải trả giá bằng hàng triệu nhân mạng, kể cả trong thời bình[1], bởi thế cần phải kịch liệt lên án.

Sau đời Tần tuy có những cuộc hỗn chiến thay đổi triều đại nhưng cuối cùng đều dẫn đến kết quả Đại nhất thống. Sử Trung Quốc cho rằng các vương triều Tần, Tây Hán, Đông Hán, Tây Tấn, Tùy, Đường, Bắc Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã thực hiện Đại nhất thống dài hạn; các thời Tân Mãng, Tào Ngụy, Dân Quốc chỉ thực hiện Đại nhất thống ngắn hạn. Thời Dân Quốc (1911-1949) Đại nhất thống được 16 năm; từ 1927 hai phái Quốc Dân và Cộng sản không ngừng đánh nhau để tranh giành quyền cai trị đất nước. Nhìn chung các triều đại Đại nhất thống đều thực hiện được việc phát triển văn minh Trung Quốc; các chính quyền đại thống nhất mà không đạt được Đại nhất thống đều nhanh chóng tan rã. Xem ra Đại nhất thống dường như là vị thuốc tăng tuổi thọ cho các chính quyền ở Trung Quốc.

Đại nhất thống dưới triều Hán Vũ Đế (156-87 TCN) là một ví dụ điển hình. Về chính trị: cả nước thống nhất chống lại sự xâm lược của Hung Nô; về kinh tế: cả nước làm kinh tế tiểu nông, lưu hành quan điểm trọng nông, bài trừ thương mại; về văn hóa tư tưởng: “Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, xác lập địa vị thống trị của Nho giáo trong giới tư tưởng Trung Quốc suốt 2000 năm sau. Từ đó trở đi Nho giáo đã ảnh hưởng vô cùng lớn đến đời sống chính trị-tư tưởng ở Trung Quốc và Việt Nam, Triều Tiên…

Hiện nay Bắc Kinh cũng yêu cầu cả nước tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Trung ương, thẳng tay diệt mọi mầm mống các “sứ quân” kiểu Bạc Hy Lai, đề cao uy quyền của người lãnh đạo cao nhất, và đòi Trung Quốc có chủ quyền trên 90% diện tích Biển Đông.

Lược sử tư tưởng Đại nhất thống

Từ “Đại nhất thống” chính thức xuất hiện lần đầu trong “Công Dương Truyện – Ẩn Công nguyên niên” (公羊傳 隱公元年), tác giả là Công Dương Cao (公羊高). Cùng với Tả Truyện và Cốc Lương Truyện, đây là 3 bộ sách sử ra đời vào thời Chiến quốc (475-221 TCN). Sách viết: 元年者何?君之始年也。春者何?岁之始也。王者孰谓?谓文王也。曷为先言而后言正月?王正月也。何言乎王正月?大一统也Tạm dịch: “Nguyên niên” là gì? Là năm đầu tiên vua lên ngôi. “Xuân” là gì? Là mùa đầu tiên bắt đầu một năm. “Vương” là nói ai? Nói Chu Văn Vương. Vì sao nói “Vương” trước rồi mới nói “tháng Giêng”? Bởi lẽ đây là tháng Giêng do Chu Văn Vương xác lập. Tại sao nói tháng giêng của Chu Văn Vương? Là để biểu thị sự Đại nhất thống.”

Đại nhất thống ban đầu chủ yếu là lý luận giải thích sự thay đổi các vương triều, là ý tưởng sơ khai về xây dựng nhà nước của Trung Quốc; về sau mới mở rộng thành sự thống nhất cao độ của nhà nước trên các lĩnh vực chính trị và văn hóa.

Tại Trung Quốc, quan niệm thống trị nhà nước khởi nguồn từ thời Tam Đại (Hạ-Thương-Chu), các thế hệ vương triều hình thành từ sự ngưng tụ mối quan hệ huyết thống thị tộc; tức trong một thời kỳ nào đó, thế hệ đế vương thì dựa vào chế độ kế thừa dòng chính nối tiếp cha con. Khi quyền lực tối cao nằm trong tay một thành viên hoàng gia thì xã hội mới có thể cho rằng quyền lực tối cao ấy là hợp pháp; ngược lại là bất hợp pháp.

Lịch sử Trung Quốc tạo ra một truyền thống chính trị quan trọng: Để xây dựng một quốc gia đích thực, được mọi người thừa nhận là chính thống, thì phải chiếm cứ một vùng đất đặc biệt và phải tạo dựng một quyền lực tập trung. Vùng đặc biệt đó là vùng Trung Nguyên (còn gọi Hoa Hạ, sau này gọi là Trung Quốc), tức vùng trung-hạ lưu Hoàng Hà (trong phạm vi tỉnh Hà Nam hiện nay), nơi khởi nguồn văn minh Trung Hoa. Thế lực nào chiếm cứ vùng này thì sẽ có ý thức tự tôn mãnh liệt, tự cho có quyền cai trị, thậm chí đánh chiếm vùng khác. Nếu thế lực thống trị Trung Nguyên suy yếu thì các thế lực mạnh quanh đó sẽ tìm cách cướp lấy vùng này. Nhà Thương thay nhà Hạ, nhà Chu thay nhà Thương… đều phải giành được Trung Nguyên đã rồi mới giành được địa vị chính thống.

Vùng Trung Nguyên Trung Quốc nằm ở giữa Đông Á. Sau mấy nghìn năm, người Trung Nguyên đã xây dựng được một nền văn minh rực rỡ, có những nhà tư tưởng, nhà phát minh… làm cho vùng này trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế, KHKT và chính trị, có sức cuốn hút đối với các vùng xung quanh.

Cho dù thời Tam Đại đã có quan niệm Đại nhất thống nhưng đó chỉ là loại ý thức mơ hồ, chưa hệ thống hóa, lý luận hóa, bởi lẽ thời ấy Trung Quốc chưa xuất hiện các nhà tư tưởng.

Thời Xuân Thu (770-476 TCN) xã hội Trung Quốc loạn lạc, chia rẽ. Trong tình hình đó nhà tư tưởng Khổng Tử (551-479 TCN) đã thiết kế một mô hình xã hội có trật tự, đề xuất “Lễ Nhạc Chinh phạt tự Thiên tử xuất”, nghĩa là Thiên Tử (đế vương) phải nắm quyền lực điều hành toàn bộ thiên hạ. Lão Tử (571-471 TCN) cũng chủ trương lấy “Nhất” làm gốc: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”. Mạnh Tử (372-289 TCN) nói “Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương” (Trời không có hai Mặt Trời, Dân không có hai vua)….

Nhiều nhân vật khác cũng góp phần phát triển tư tưởng Đại nhất thống. Như Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) đã thực sự phát huy tư tưởng này một cách hệ thống hóa. Đổng nói “Xuân Thu đại nhất thống giả, thiên địa chi thường kinh, cổ kim chi thông nghị dã”. Ý nói: Đại nhất thống thời Xuân Thu là đạo lý xưa nay của trời đất, không thể thay đổi; có nhà nước Đại nhất thống ắt phải có tư tưởng thống nhất của nhà nước ấy; chỉ khi nào có sự thống nhất trên dưới thì mới bảo đảm thực thi thuận lợi các pháp chế, mệnh lệnh, quy tắc.

Một số yếu tố sau đây đã xúc tiến Trung Quốc thực hiện Đại nhất thống:

– Thời xưa người của hai bộ lạc Viêm Đế và Hoàng Đế hòa huyết làm nên tộc Hoa Hạ (sau gọi là người Hán). Các vương triều Trung Quốc đều chủ trương di dân từ Trung Nguyên đến các vùng mới chiếm nhằm đồng hóa người bản xứ, hòa trộn họ vào tộc Hoa Hạ.
– Chữ Hán thuộc loại chữ biểu ý (ghi ý), vì thế nó có tác dụng như một chữ viết siêu ngôn ngữ, siêu dân tộc; các tộc người khác tiếng nói (khác phương ngữ) ở Trung Quốc cũng như các dân tộc ở gần Trung Quốc đều có thể dùng chung chữ Hán để giao tiếp với nhau.
– Người Trung Quốc có văn hóa thờ tổ tiên, con cháu bao đời đều giữ ký ức về một cội nguồn, nhờ thế dễ hòa hợp để thành một dân tộc, một quốc gia.

Tần Thủy Hoàng thực hiện Đại thống nhất và Đại nhất thống

Tần Thủy Hoàng (259-210 TCN) tên Doanh Chính, là nhà chính trị, nhà cải cách, nhà cai trị bàn tay sắt, người hoàn thành Đại thống nhất và Đại nhất thống Hoa Hạ. Năm 247 TCN, cha là Tần Tương Vương chết, Doanh Chính 13 tuổi lên ngôi vua; 22 tuổi đích thân lo việc triều chính, bỏ Thừa tướng Lã Bất Vi, trọng dụng Lý Tư. Năm 238 TCN, vua Tần theo kế của Lý Tư xác lập chính sách “Diệt chư hầu, thành Đế nghiệp, vi thiên hạ nhất thống” tức “Tiêu diệt các nước chư hầu, dựng cơ nghiệp đế vương, thực hiện Đại nhất thống thiên hạ”. “Sử ký – Lý Tư liệt truyện” viết “Thành đế nghiệp” là chủ trương chính trị của Nho giáo.

Thời gian 230-221 TCN nhà Tần dùng sách lược “Viễn giao cận công” để diệt dần từng nước chư hầu, lần lượt chiếm cả 6 nước xung quanh.

Trước tiên diệt Hàn, nước nhỏ yếu nhất ở cạnh Tần. Chỉ bằng cách dùng nội gián mà Tần buộc Hàn phải đầu hàng. 45 vạn quân nước Triệu đến giúp Hàn tuy đã ra hàng nhưng vẫn bị giết hết. Vua Hàn Vương An bị xử theo hình phạt “Ngũ mã phanh thây”, tức buộc hai chân hai tay và đầu nạn nhân vào 5 con ngựa rồi quất cho chúng lồng lên chạy tứ phía, xé xác nạn nhân. Sự tàn ác khủng khiếp của quân Tần khiến cho các nước chư hầu kinh sợ

Nước Triệu duy nhất đủ sức chống Tần, nhưng do sai lầm chiến thuật mà lụn bại dần. Tần dùng kế ly gián khiến vua Triệu giết tướng giỏi Lý Mục, vì thế quân Triệu thua phải đầu hàng, vua Triệu bị giam cho tới chết.

Thấy Hàn, Triệu bị Tần diệt nhanh và tàn ác thế, nước Ngụy mất hết sức chiến đấu. Kinh đô Đại Lương của Ngụy ở vào chỗ thấp; tướng Tần Vương Bôn tháo nước sông cho ngập thành làm chết 10 vạn người nước Ngụy. Vua Ngụy đầu hàng rồi cũng bị giết.

Vua Sở là Xương Bình Quân, thủa nhỏ cùng sống với Doanh Chính, thân nhau lắm. Sau khi bức Lã Bất Vi chết, vua Tần chọn Xương làm Thừa tướng. Nhưng khi Tần cử Lý Tín đem 20 vạn quân đánh Sở thì cuối cùng Xương vẫn trở về tổ quốc mình, đánh cho Lý Tín đại bại. Về sau Tần Thủy Hoàng cử Vương Tiễn đem 60 vạn quân đánh Sở lần nữa. Cuối cùng Sở thua, Xương Bình Quân chết.

Yên là nước thứ 5 bị nhà Tần đánh. Nước Yên nhỏ yếu nên biết chắc nếu bị đánh là thua. Vả lại vua Yên vốn có tư thù với Tần Thủy Hoàng: Thái tử Đan từng phái hiệp sĩ Kinh Kha đến kinh đô Hàm Dương ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành. Vua Yên hèn nhát đã giết Thái tử Đan rồi đem thủ cấp Đan dâng nhà Tần để Tần hoãn chiếm Yên 4 năm. Nhưng cuối cùng nhà Tần vẫn cứ chiếm nước Yên rồi giết vua Yên.

Tề quốc là nước thứ 6 trong “Chiến quốc Thất hùng” bị Tần “chinh phục, thống nhất”. Sau khi diệt 5 nước, nhà Tần trở nên rất mạnh, khiến quân Tề sợ hãi, rối loạn. Năm 221 TCN Tần Thủy Hoàng phái người đến bảo vua Tề là nếu đầu hàng thì sẽ ban cho 500 dặm đất. Vua Tề cả tin nên nước mất nhà tan, nhà vua bị bỏ vào rừng sâu rồi chết đói.

Giết vua của 6 nước nhưng nhà Tần lại biệt đãi các cung phi của họ. Người nào xinh đẹp đều được đưa về ở Cung A Phòng tráng lệ làm nô lệ tình dục cho Tần Hoàng đế.

Đại thắng, song Tần Thủy Hoàng chưa thỏa mãn: Năm 219 TCN lại sai Đồ Tuy và Triệu Đà đem 40 vạn quân vượt Trường Giang xuống phía nam đánh chiếm vùng đất mênh mông, quê hương của các bộ lạc mà người Hoa Hạ gọi gộp là “Bách Việt”. Quân Tần không gặp nhiều khó khăn vì Bách Việt chưa phải là các quốc gia có chính quyền trung ương và quân đội. Chỉ khi đánh Lĩnh Nam, quân Tần mới gặp sự chống cự ác liệt của bộ lạc Lạc Việt thạo đánh du kích. Đồ Tuy tử trận, Nhâm Hiêu lên thay. Tần Thủy Hoàng sai lính đào kênh nối các con sông với nhau để dùng thuyền chở lương thực cho quân đội.

Đến năm 214 TCN nhà Tần mới chiếm xong Lĩnh Nam. Người Lạc Việt di tản về phía nam và tây nam. Những người chạy về Quảng Tây sau này gọi là người Tráng, dân tộc thiểu số đông người nhất Trung Quốc hiện nay. Số người chạy tới Vân Nam về sau gọi là người Tải. Rất nhiều người chạy xuống Đông Nam Á. Một số định cư ở vùng núi miền bắc Việt Nam làm thành dân tộc Tày-Nùng. Dòng người di tản theo sông Mekong đi xa hơn, tới Lào, Thái Lan…về sau trở thành thành phần dân cư chính ở hai nước này.

Như vậy Tần Thủy Hoàng đã thực hiện được ước mơ “thống nhất thiên hạ”, mở mang bờ cõi rộng gấp nhiều lần, tự xưng Hoàng đế, mở đầu đế chế phong kiến Trung Hoa độc tài khét tiếng về sự cai trị tàn bạo cũng như về thành tích cải cách hành chính theo hướng pháp trị. Nhưng do lối sống vô độ, năm 210 TCN Tần Thủy Hoàng chết sớm ở tuổi 49.

Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc lập nên một quốc gia Đại nhất thống, mở đầu lịch sử mấy nghìn năm người Hán liên tục xâm chiếm các vùng xung quanh (trong đó có những vùng xa rộng mênh mông như Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương…) để mở rộng lãnh thổ, trở thành một nước siêu lớn khiến cả thế giới kiêng nể.

Do thi hành đường lối cai trị dã man, giết quá nhiều người và chủ trương “Đốt sách, chôn nhà Nho” nên Tần Thủy Hoàng bị chê là bạo quân. Dân chúng khắp nơi trong nước nổi lên chống lại; rốt cuộc triều đại nhà Tần chỉ tồn tại có 15 năm (221–206 TCN). Nhưng sử Trung Quốc đánh giá cao công trạng thống nhất đất nước và cải cách hành chính của nhà Tần. Như đã xây dựng được một bộ máy chính quyền tập trung, cai trị đất nước chặt chẽ, hiệu quả hơn hẳn hệ thống chính quyền lỏng lẻo dưới thời Thương-Chu. Thiên Tử của các triều đại trước đều không có quyền lực lớn như Hoàng đế thời Tần.

Nhà Tần đã thực hiện nhiều cải cách nhằm tạo thuận tiện phát triển văn hóa, kinh tế như thống nhất chiều dài trục xe, thống nhất chữ viết, thống nhất tiền tệ và chế độ đo lường…

Thực ra các ý tưởng cải cách này đã có từ thời Xuân Thu (770-476 TCN). Ví dụ sách “Lễ ký-Trung dung” chương 28 viết: “Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn, hạnh đồng luân”, coi việc thống nhất chiều dài trục xe, chữ viết và phong tục tập quán là phận sự mà bậc Thiên Tử phải làm. Nhưng việc này vô cùng khó, chỉ có bàn tay sắt của chế độ độc tài Tần Thủy Hoàng mới thực hiện được.

Tình hình ngôn ngữ ở Trung Quốc thời xưa cực kỳ phức tạp. Có rất nhiều tiếng địa phương (phương ngữ), thậm chí một huyện có tới vài phương ngữ, nghe không hiểu nhau, và thói quen rắc rối này không thể sửa được. Chữ Hán có tới 7 loại khác nhau về tự dạng: Giáp cốt văn, Kim văn, Tiểu triện, Lệ thư, Khải thư, Hành thư, Thảo thư, mỗi nơi dùng một loại. Vì thế người cùng một nước mà nghe nói và đọc chữ không hiểu nhau, đất nước không thể Đại nhất thống. Sau khi thống nhất lãnh thổ, Tần Thủy Hoàng đã tiến hành thống nhất chữ viết, gọi là Thư đồng văn (thư là viết, văn là chữ, đồng là thống nhất), quy định cả nước chỉ viết một loại chữ Tiểu Triện. Nhờ thế tuy dân các nơi vẫn nói tiếng địa phương, vẫn nghe không hiểu nhau nhưng do viết cùng một loại chữ nên vẫn có thể hiểu nhau qua bút đàm, khiến mọi người cảm thấy họ cùng một nòi giống dân tộc, làm cho tư tưởng Đại nhất thống đi vào lòng dân. Thống nhất chữ viết là công trạng lớn nhất của Tần Thủy Hoàng.

Nhưng nhà Tần chỉ thống nhất được chữ viết, còn tiếng nói thì quá khó thống nhất. Mãi tới thế kỷ XX, người Trung Quốc mới đề xuất “Nói cùng một thứ tiếng” (Ngữ đồng âm), phấn đấu đến năm 2020 mới thực hiện cả nước cơ bản nói cùng một thứ tiếng Phổ thông (Mandarin).

Thời xưa khi làm đường chạy xe, người ta chỉ làm mặt cứng (như lót đá, lót gỗ…) cho hai vệt đường mà bánh xe đè lên, chứ không làm cứng toàn bộ mặt đường. Để cho xe nước khác không thể đi vào hệ thống đường xá nước mình, mỗi nước đều quy định khoảng cách giữa hai vệt đường khác với nước kề bên, tức xe mỗi nước đều dùng trục xe có độ dài riêng. Nhà Tần đã thực hiện “Xa đồng quỹ”, quy định cả 7 nước đều dùng trục xe có cùng một độ dài, hai vệt trên mặt đường có cự ly thống nhất, tiêu chuẩn hóa.

Việc chiếm 6 nước và thực hành cải cách mọi mặt đã làm nước Tần giàu mạnh lên. Nhờ thế chỉ 2 năm sau “thống nhất” 6 nước, năm 219 TCN nhà Tần đã có thể huy động 40 vạn quân đánh xuống vùng phía nam Trường Giang và di cư mấy chục vạn dân Trung nguyên tới ở các vùng mới chiếm để đồng hóa dân bản xứ. Đến năm 214 TCN, biên giới nam Trung Quốc đã mở rộng đến nam Trung bộ Việt Nam. Ngoài ra đã huy động sức dân xây dựng nhiều công trình lớn như cung A Phòng, Vạn lý Trường thành, lăng mộ Tần Thủy Hoàng …

Lịch sử cho thấy, vì mục tiêu đại thống nhất và Đại nhất thống, phong kiến Trung Quốc không tiếc hy sinh mạng người, của mình hoặc của vùng đất bị xâm lược. Số người chết trong chiến tranh tính bằng đơn vị “vạn” (10.000). Hiếm nước nào có năng lực giết người và chịu bị giết tới mức dã man khủng khiếp như Trung Quốc.

Phản ứng với “Đại nhất thống”

Dư luận Trung Quốc phổ biến ca ngợi tư tưởng Đại nhất thống, bởi lẽ họ luôn mơ ước nước mình lớn mạnh nhất thế giới. Chương I sách “Giấc mơ Trung Quốc” của đại tá quân Giải phóng Trung Quốc Lưu Minh Phúc mở đầu bằng câu “Nhất thế giới” là giấc mơ trăm năm của Trung Quốc .

Muốn vậy Trung Quốc phải bành trướng lãnh thổ, trở thành một nước đất rộng, dân đông và thực hiện Đại nhất thống. Trên thực tế họ đã không ngừng làm như vậy trong hàng nghìn năm qua. Họ đã tạo dựng khái niệm “dân tộc Hán”, sẵn sàng “kết nạp” bất cứ tộc người nào vào cái “đại tộc” này, làm cho tộc Hoa Hạ thời xưa sống trong một tỉnh nay có tới hơn 1 tỷ dân!

Họ đã không ngừng tìm cách mở rộng cương vực nước mình. Hiện nay Trung Quốc đang đòi chiếm tới 90% Biển Đông. Các sự thực lịch sử cho thấy, chừng nào tư tưởng Đại Thống nhất và Đại Nhất thống còn tác oai tác quái ở Trung Quốc thì vùng Đông Á và Biển Đông còn chưa được một ngày yên bình.

Thậm chí giờ đây họ còn chấp nhận “Một nước hai chế độ”, tức dưới tiền đề một nước Trung Quốc, trong đó chủ thể của quốc gia (là đại lục Trung Quốc) kiên trì thực hiện chủ nghĩa xã hội, còn Đài Loan, Hong Kong, Macau vẫn giữ chế độ tư bản lâu dài, thực hiện chung sống hòa bình hai hệ tư tưởng đối lập nhau là CNXH và chủ nghĩa tư bản. Tất cả chỉ nhằm để đạt được sự Đại nhất thống trên lãnh thổ rộng hơn![2]

Dư luận quốc tế cũng phê phán chế độ chính trị Đại nhất thống đã bóp chết sức sáng tạo, buộc toàn dân suy nghĩ theo một người; làm cho tư duy của người Trung Quốc thiếu tính logic, dập khuôn xơ cứng, tạo thói quen phục tùng quyền lực, sùng bái cá nhân, tình trạng thiếu dân chủ tự do. Ví dụ chủ trương “Bãi truất Bách gia, Độc tôn Nho thuật” được Hán Vũ đế chuẩn y, sau đó thực thi liền 2000 năm đã bóp chết các hệ tư tưởng khác, khiến văn minh Trung Hoa trở nên trì trệ, khác hẳn thời Chiến quốc “Trăm nhà đua tiếng” xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng, nhiều nhà tư tưởng, làm cho nền văn minh tỏa sáng một thời.

—————————–

Chú thích:

[1] Ví dụ các phong trào do Mao Trạch Đông phát động những năm 50-60 đã làm chết hàng chục triệu dân.
[2] Tham khảo: Nguyên TBT Lê Duẩn kể: Năm 1963, trong một lần tiếp anh Trường Chinh và tôi, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” … Khi đã ra ngoài, tôi bảo anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch. [Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc; New Evidence on the Cold War in Asia].

Theo NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ

Tags: , ,