Trung Quốc và trái đắng của cuộc chiến tranh Triều Tiên

Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung – Xô, làm cho quan hệ Xô – Trung vốn tiềm ẩn những bất ổn, chuyển hẳn sang trạng thái căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng.

Trung Quốc và trái đắng của cuộc chiến tranh Triều Tiên

Là cuộc xung đột cục bộ đầu tiên của thời kỳ chiến tranh Lạnh, dù đã tạm khép lại, song chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) kịp để vô số hệ lụy. Vượt qua giới hạn thông thường của một cuộc đấu tranh thống nhất đất nước bằng con đường vũ trang, chiến tranh Triều Tiên hàm chứa những mâu thuẫn lớn của cuộc đối đầu Đông – Tây. Đằng sau mỗi sự kiện, mỗi diễn biến của cuộc chiến, đều có bàn tay, bóng dáng và những dự liệu, những kế hoạch ngầm định của các cường quốc

1 – Trung Quốc với kế hoạch thống nhất Triều Tiên của Kim Nhật Thành

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, theo thỏa thuận của các nước lớn, tháng 8/1948, Nam Triều Tiên tuyên bố thành lập Đại hàn Dân quốc, tháng 9/1948, Bắc Triều Tiên tuyên bố thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên), chính thức hình thành cục diện chia cắt bán đảo Triều Tiên. Cũng từ thời điểm đó, cả hai miền Bắc, Nam Triều Tiên đều khẩn trương chuẩn bị cho công cuộc thống nhất đất nước.

Từ tháng 1/1950, Kim Nhật Thành đã lên kế hoạch xóa đi vết cắt ngang bán đảo Triều Tiên mang tên vĩ tuyến 38 bằng “đòn tấn công bất ngờ, với hai cánh quân bộ binh bao gồm 9 sư đoàn, trên hai hướng Seoul và Hunchhon, kết hợp với các cuộc tấn công của lực lượng du kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân”.Khi Kim Nhật Thành đem kế hoạch này bàn bạc với người đứng đầu Nhà nước Trung Hoa mới, Mao Trạch Đông không ủng hộ, nêu rõ quan điểm: “Không nên tấn công miền Nam, nhưng nếu Lý Thừa Văn khởi sự trước, cần kiên quyết đáp trả”; khuyên Kim Nhật Thành nên tham vấn ý kiến I.V. Stalin. Thông qua Đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng T.F.Shtyucov, Kim Nhật Thành tích cực tranh thủ sự ủng hộ của I.V. Stalin. Nhìn chung, I.V. Stalin đón nhận thông tin và yêu cầu của CHDCND Triều Tiênvới thái độ dè dặt: “Một việc lớn như vậy phải được tính toán hết sức cẩn thận. Cần chuẩn bị để không xảy ra bất kỳ một sơ suất nào”. Ngày 8/4/1950, Đoàn đại biểu CHDCND Triều Tiên do Kim Nhật Thành dẫn đầu bí mật đến Moskva, mang theo kếhoạch sơ bộ tấn công NamTriềuTiên. Tại cuộc gặp, Kim Nhật Thành dùng mọi lý lẽ thuyết phục I. V. Stalin đồng ý, nhưng I.V. Stalin chưa có câu trả lời dứt khoát, chỉ khẳng định, nếu chiến tranh nổ ra, Liên Xô sẽ không thể tham dự. Trong tháng 4 và nửa đầu tháng 5/1950, Kim Nhật Thành liên tục hối thúc và chờ đợi tín hiệu từ Liên Xô. Ngày 14/5/1950, I. V. Stalin gửi điện tín cho T.F.Shtyucov, một lần nữa nói rõ quan điểm: “Vấn đề này phải được bàn bạc kỹ giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Trong trường hợp Trung Quốc chưa đồng ý, kế hoạch được lùi lại, chờ bàn bạc tiếp”. Ngày 15/4/1950, Đại sứ T.F.Shtyucov thông báo về Moskva rằng, kế hoạch của Kim Nhật Thành đã được Mao Trạch Đông chấp thuận và hứa sẵn sàng can thiệp quân sự trong trường hợp cần thiết. Khi đã chắc chắn với cam kết về sự tham dự vào chiến tranh của Trung Quốc, cuối tháng 5/1950, I. V. Stalin mới đi đến quyết định cuối cùng: Bật đèn xanh cho CHDCNDTriềuTiên thực hiện kế hoạch thống nhất đất nước. Như vậy, ý định phát động chiến tranh xuất phát từ CHDCND Triều Tiên, song nó chỉ thành hiện thực sau cái gật đầu của I. V. Stalin – lãnh tụ “trung tâm cách mạng thế giới” và sự đồng ý của I. V. Stalin chỉ có khi và chỉ khi Mao Trạch Đông lãnh trách nhiệm tham gia và chi viện cho những người anh em Bắc Triều Tiên. Vậy, về bản chất mà nói, kế hoạch thống nhất đất nước của CHDCND Triều Tiên phụ thuộc vào sự đồng ý của Trung Quốc. Điều gì ẩn sâu và làm nền cho logic đó?

Trong bầu không khí chiến tranh Lạnh đang từng ngày nóng dần lên, việc CHND Trung Hoa với dân số lớn nhất thế giới và diện tích đứng thứ ba thế giới được thành lập khiến cả Mỹ và Liên Xô đều thấy “bất an”, đều không thể không tính đến “yếu tố Trung Hoa”. Tuy có chung nền tảng tư tưởng mácxit, song từ trước khi nước Trung Hoa mới ra đời, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô đã có dấu hiệu “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Cuộc vận động, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Trung Quốc những năm 40 (XX) bị Liên Xô nghi ngờ là hành động thanh trừng các phần tử thân Liên Xô. Tại Hội nghị Ianta (1945), I. V. Stalin hứa với Tưởng Giới Thạch sẽ không ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc đối đầu với Quốc Dân Đảng để đổi lấy việc công nhận độc lập của vùng Ngoại Mông và một số nhượng bộ khác… Hành động này đã đánh mạnh vào niềm tin của Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc. Trong suốt cuộc nội chiến 1946-1949, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với Đảng Cộng sản Liên Xô không mấy thuận hòa. Nghi ngờ khả năng giành thắng lợi cuối cùng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Liên Xô chọn vị trí trung lập giữa những người cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng. Những mâu thuẫn tích tụ, tuy chưa bùng phát, song cho thấy trên nền ý thức hệ, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc nhiều nghi ngại hơn là tin cậy. Đặc biệt, với tính cách lạnh lùng, luôn hoài nghi, đầy mâu thuẫn, I. V. Stalin chưa bao giờ tin tưởng ở Mao Trạch Đông – một người, như I. V. Stalin quan niệm, có quá nhiều tính toán và tham vọng mà I. V. Stalin là người biết rõ hơn ai hết trong thời gian lãnh đạo Quốc tế Cộng sản III khi Đảng Cộng sản Trung Quốc còn là một bộ phận trực thuộc. Cũng vì thế, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) ra đời, tuy nói lời chào mừng, khẳng định “thắng lợi của cách mạng Trung Quốc sẽ làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thế giới”, vui mừng vì sự lớn mạnh của “đại gia đình các nước dân chủ” có thêm Trung Hoa nhập vào, song thực tế, I. V. Stalin đã hình dung đầy đủ và lo lắng về một cuộc cạnh tranh không mấy dễ chịu từ người láng giềng anh em. Khả năng hình thành một trung tâm cách mạng mới trên nền liên minh Trung Quốc – Bắc Triều Tiên trở thành nỗi ám ảnh đặc biệt “nhạy cảm” đối với I. V. Stalin, nhất là khi câu chuyện Nam Tư còn đang nóng hổi. Từ phía Liên Xô, xuất hiện yêu cầu phải kiềm chế và kiểm soát Trung Quốc. Kế hoạch thống nhất đất nước của Kim Nhật Thành và việc đá quả bóng sang chân Trung Quốc chính là một cơ hội thích hợp, hết sức lý tưởng cho I. V. Stalin thực hiện mục tiêu. Chiến tranh Triều Tiên là một tính toán của Liên Xô kéo Bắc Kinh vào cuộc đối đầu với Washington, để Trung Quốc không có điều kiện “nói chuyện” với Hoa Kỳ – điều nếu thành hiện thực sẽ là một thách thức không dễ vượt qua, nhất là đối với những kế hoạch củng cố vị thế và tăng cường sức mạnh toàn cầu mà Liên Xô đang ấp ủ.

Một khía cạnh khác: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ đồng minh Xô – Mỹ bất đắc dĩ nhanh chóng tan vỡ, hai nước chuyển sang trạng thái đối đầu quyết liệt, cạnh tranh sức mạnh, ảnh hưởng ở cả vũ đài trung tâm (Châu Âu) lẫn ở vùng ngoại vi (Châu Phi, Châu Á và Trung Đông). Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận hoạt động củng cố vòng cung an ninh Châu Âu của Liên Xô như sự thống trị mang tính thù địch với thế giới tư bản, có thể đe dọa đến an ninh quốc gia của Mỹ; vì thế, tìm kiếm mọi phương thức bao vây, ngăn chặn Liên Xô. Mỹ trở thành đối thủ hàng đầu, nguy hiểm đối với Liên Xô. Trong thế đối đầu, xung đột của chiến tranh Lạnh, “Trung Quốc là nước lớn duy nhất đứng ở giao điểm giữa hai siêu cường Mỹ – Xô, mục tiêu ảnh hưởng và thù hận của cả hai”; do vậy, đẩy Trung Quốc đụng độ với Mỹ là mũi tên trúng hai đích mà Liên Xô nhằm tới: 1- Mỹ tham gia, sa lầy trong chiến tranh, bộc lộ bộ mặt hiếu chiến trước thế giới; 2- Trung Quốc “kháng Mỹ, viện Triều”, đối đầu với Mỹ, phụ thuộc vào Liên Xô trước là về kinh tế, vũ khí, sau là về chính trị. Bức điện của I. V. Stalin gửi lãnh đạo Tiệp Khắc K.Gottwald lý giải việc Đại diện Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc Y.A.Malik tẩy chay cuộc họp về vấn đề Triều Tiên (26/6/1950) đã nói lên những tính toán đối với Mỹ: “Tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, Mỹ sẽ chôn vùi sức mạnh quân sự và uy tín quốc tế tại đó. Mỹ buộc phải chuyển trọng tâm chiến lược từ Châu Âu sang Đông Á, đối đầu trực tiếp với Trung Quốc (…) Trong một thời gian nhất định, Mỹ không thể gây chiến tranh thế giới thứ ba và điều đó hết sức có lợi cho việc củng cố hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu”.

2 – Trung Quốc và động cơ tham chiến

Về phía Trung Quốc, tuy có một số điểm bất đồng với Liên Xô, song trong tình hình chiến tranh Lạnh, Trung Quốc nhận thức những khúc mắc giữa hai Đảng là nhỏ hơn so với mục tiêu chung; do vậy, duy trì quan hệ thường xuyên và tương đối chặt chẽ với Liên Xô. Ít tháng trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Lưu Thiếu Kỳ có một vài chuyến đi bí mật tới Liên Xô. Tại cuộc hội đàm với Lưu Thiếu Kỳ (7/1949), I. V. Stalin nhiệt thành khuyến khích Trung Quốc có một vai trò lớn hơn trong thúc đẩy làn sóng cách mạng ở Châu Á và Đông Á. Trong cuộc gặp tháng 8/1949, khi thảo luận về sự cần thiết phải tiến hành “cách mạng thế giới”, nhất trí cao về vị trí trung tâm cách mạng của Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ và I. V. Stalin thỏa thuận thừa nhận vai trò đầu tàu đối với cách mạng Phương Đông của Trung Quốc.Thực hiện trách nhiệm “gánh vác” phong trào cách mạng khu vực Đông Á, ngay từ tháng 7 và tháng 8 năm 1949, Trung Quốc đã gửi trở lại Bắc Triều Tiên sư đoàn số 164 và 166 gồm phần lớn sĩ quan, binh lính gốc Hàn Quốc; đồng thời, viện trợ hàng hóa, vũ khí. Như vậy, trước khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã có quan hệ khá chặt chẽ.

Tin tưởng thắng lợi, ở sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, ngày 25/6/1950, quân đội CHDCND Triều Tiên tấn công Hàn Quốc. 72 giờ sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Mỹ quyết định trực tiếp can thiệp, lôi kéo liên quân 15 nước tham gia, gửi Hạm đội 7 đến eo biển Đài Loan, cuộc nội chiến Triều Tiên trở thành cuộc khủng hoảng quốc tế. Hành động này của Mỹ càng củng cố thêm nhận thức của Trung Quốc về “mối đe dọa Hoa Kỳ” với chiến lược mở rộng ảnh hưởng, tiêu diệt cách mạng Châu Á, bao vây Trung Quốc từ hướng Triều Tiên và Việt Nam.

Trong khi đó, sau một thời gian diễn biến chiến trường nhìn chung có lợi cho CHDCND Triều Tiên, vào tháng 10/1950, quân đội Hàn Quốc và Liên quân Liên Hợp Quốc lật ngược thế cờ, phản công mạnh mẽ, vượt vĩ tuyến 38, tràn lên miền Bắc, tiến dần về phía biên giới Trung Quốc. Lúc này, nếu không có những quyết sách kịp thời, việc Bắc Triều Tiên thất thủ chỉ còn trong gang tấc, nhưng tham gia vào cuộc xung đột không nằm trong tính toán của I.V. Stalin. Quan điểm của I.V. Stalinlà “cần phải hối thúc Trung Quốc vào trận, còn Liên Xô chỉ can dự có mức độ trong trường hợp thật khẩn cấp, bất khả kháng”.

Nhận thức về lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh xung đột Đông – Tây, khi “các vấn đề trung tâm trong thế giới sau Thế chiến thứ hai là cách mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu, phản ánh qua sự đối đầu giữa Hoa Kỳ -Liên Xô, còn ở Trung Quốc là cuộc đấu tranh giữa Tưởng Giới Thạch với Đảng Cộng sản Trung Quốc”, lãnh đạo Trung Quốc tin chắc rằng cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Mỹ là không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là khi nào và ở đâu. Vào tháng 3/1950, trong cuộc hội đàm với Đại sứ CHDCND Triều Tiên tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông nhận định: “Nếu cuộc chiến tranh thế giới thứ ba nổ ra, Bắc Triều Tiên sẽ không tránh khỏi bị lôi kéo vào, vì thế, nên chuẩn bị sẵn sàng lực lượng vũ trang”. Cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ càng khiến cho Mao Trạch Đông tin vào luận chứng của mình, nhìn nhận cuộc chiến như một biểu hiện tập trung nhất của mâu thuẫn giữa hai phe xã hội chủ nghĩa – tư bản chủ nghĩa và là điểm khởi phát  cuộc chiến tranh của Phương Tây chống lại các nước xã hội chủ nghĩa do Mỹ lãnh đạo. Tại Hội nghị Bộ Chính trị, Đảng Cộng sản Trung Quốc (8/1950), Mao Trạch Đông khẳng định nếu đế quốc Mỹ đạt được thế thượng phong tại Hàn Quốc, đó sẽ là mốiđe dọa lớn đối vớiTrung Quốc và cách mạng Châu Á. Trên nền tảng lý luận Marx-Lenin về chiến tranh cách mạng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng, trong xung đột Triều Tiên, nếu Trung Quốc không can thiệp, phong trào cách mạng Châu Á và thế giới sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng. Ủng hộ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai chứng minh sẽ là bất lợi cho hòa bình thế giới nếu Bắc Triều Tiên bị đánh bại, bởi vì người Mỹ sẽ trở nên tham lam vô độ. Quan điểm này được thể hiện đậm nét trong “Sắc lệnh thành lập Chí nguyện quân Trung Quốc” (8/10/1950): “Chúng ta đưa quân đội vào Triều Tiên để chiến đấu với đế quốc Mỹ…Chúng ta cần phải và có thể giải quyết vấn đề, có nghĩa là chúng ta sẽ tiêu diệt hết lực lượng xâm lược Mỹ và các nước đế quốc”. Theo logic đó, tháng 12/1950, MaoTrạch Đông lý giải mục tiêu Trung Quốc vượt qua sông Áp Lục không chỉ vì lý do quân sự đơn thuần, mà chủ yếuvì lý do chính trị, nhằm góp phần tăng cường lực lượng dân chủ thế giới, là một đòn đánh mạnh vào chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, nhận thức của Trung Quốc về xung đột Triều Tiên và vai trò của Trung Quốc trong cuộc xung đột đã vượt qualợi ích quốc gia hạn hẹp, vượt qua mục tiêu bảo vệ an ninh biên giới thông thường, vượt mong muốn ghi dấu vai trò đầu tàu với các nước vệ tinh xung quanh. Sự tham gia của Trung Quốc vào chiến tranh Triều Tiêngắn chặtmục tiêu tái khẳng định vị trí trong trật tự quốc tếsau chiến tranh thế giới thứ hai, gắn với quan điểm về tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản ở Châu Á và trên phạm vi toàn thế giới, ở đó, vai trò của Trung Quốc là rất quan trọng. Nhận thức này có ý nghĩaquyết định hàng đầu trong quyết tâm hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên của Mao Trạch Đông, dù quyết tâm đó không nhận được sự ủng hộ của đa số các thành viên Bộ Chính trị và với kinh nghiệm chính trị dày dặn, người đứng đầu nước Trung Hoa mới đã “đọc ra” toan tính của Liên Xô, lường trước những khó khăn, tổn thất, mất mát mà chiến tranh Triều Tiên có thể mang lại.

– Trung Quốc vào cuộc và hệ lụy

Ngay sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức quyết định hoãn kế hoạch giải phóng Đài Loan để tập trung cho vấn đề Triều Tiên. Ngày 30/6/1950, Trung Quốc gửi một nhóm các nhà ngoại giao đến Bắc Triều Tiên (trong số họ đa phần là các nhân viên tình báo quân sự) thiết lập kênh thông tin liên lạc trực tiếp. Từ tháng 6/1950, Trung Quốc khẩn trương cử tới Bắc Triều Tiên những binh lính, sĩ quan gốc Hàn Quốc với số lượng ngày càng tăng, lên đến 111.000 người vào tháng 12/1950 và lực lượng này ngay lập tức tham gia vào chiến tranh, phục vụ ở các vị trí bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên…cùngcác vị trí quan trọng khác. Ngày 5/7/1950, I.V. Stalin hối thúc Mao Trạch Đông chuẩn bị 9 tiểu đoàn trong tư thế sẵn sàng tập trung sát biên giới Trung – Hàn và hứa sẽ bảo vệ lực lượng này từ trên không. Tin tưởng ở sự hợp tác và ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc tích cực viện trợ cho Bắc Triều Tiên súng ống, đạn dược, thuốc men…, đồng ý để CHDCND Triều Tiên xây dựng trên đất Trung Quốc các kho chứa hàng hóa viện trợ, các thiết bị, máy móc tháo dỡ từ Bắc Triều Tiên nhằm tránh thiệt hại bởi bom đạn Mỹ.

Ngày 2/10/1950, Mao Trạch Đông thông báo cho I.V. Stalin sẽ đưa quân giúp đỡ CHDCND Triều Tiên, dự định quân đội Trung Quốc sẽ có mặt ở Triều Tiên vào trung tuần tháng 11/1950; đồng thời, đề nghị: “Lúc đầu, khoảng 5-7 sư đoàn quân tình nguyện sẽ được đưa tới Triều Tiên, song những sư đoàn này chỉ có thể tham gia chiến đấu sau khi nhận được trang bị vũ khí từ Liên Xô”. Mao Trạch Đông yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc từ trên không. Thực không hổ là nhà chính trị lão luyện – quyết định chiến đấu vì mục tiêu “cách mạng thế giới đại đồng”, Mao Trạch Đông cân nhắc để tham gia cuộc chiến tranh với những điều kiện có lợi nhất, đặc biệt là tranh thủ viện trợ vũ khí hiện đại từ Liên Xô, xây dựng nền quốc phòng vốn lạc hậu. Về viện trợ vũ khí, I.V. Stalin lập tức đồng ý, “sẵn sàng trang bị vũ khí cho khoảng 20 sư đoàn Quân chí nguyện Trung Quốc”. Về đề nghị hỗ trợ không quân, I.V. Stalintrả lời: “Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dânTriều Tiên, nhưng cần có thời gian chuẩn bị”. Câu trả lời của I.V. Stalin khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng thương vong lớn. Tại thời điểm Trung Quốc cần hơn bao giờ hết mọi sự giúp đỡ, việc Liên Xô từ chối yểm trợ không quân đã giáng một đòn chí tử vào liên minh Trung – Xô. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng nuốt trôi trái đắng của sự phản bội” và không bao giờ có thể tha thứ cho điều đó. Nhà nghiên cứu Chen Jian khẳng định: “Có đầy đủ cơ sở để nói rằng, những mầm mống mâu thuẫn Trung – Xô trong tương lai đã được gieo từ những ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”.

Nuốt trái đắng, Mao Trạch Đông trì hoãn gửi quân đội đến Bắc Triều Tiên trong khi quân đội Hàn Quốc và Liên quân Liên Hợp Quốc đang trên đà tấn công uy hiếp. Trong tình thế không cho phép chần chừ hơn nữa, giữ nguyên kế hoạch đưa quân vào Bắc Triều Tiên, Chu Ân Lai (lúc này đang ở Liên Xô) được lệnh tiếp tục thuyết phục I.V. Stalin. Cuối cùng, ngày 18/10/1950, sau rất nhiều nỗ lực, Chu Ân Lai mang về lời hứa cung cấp viện trợ quân sự cần thiết và hỗ trợ không quân của Liên Xô. Ngày 19/10/1950, Chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, trực tiếp tham chiến đấu trên chiến trường Triều Tiên. Thực hiện thỏa thuận, ngày 1/11/1950, máy bay Không quân Liên Xô tham gia trận chiến đấu đầu tiên. Cuối tháng 11/1950, trên địa phận Trung Quốc, Quân đoàn phòng không Liên Xô số 64 được thành lập, có nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị quan trọng, các vị trí chiến lược quân sự trọng yếu của vùng Đông Bắc Trung Quốc và hậu phương của quân đội CHDCND Triều Tiên.

Sau khi Chí nguyện quân Trung Quốc và lực lượng phòng không – không quân Liên Xô nhập cuộc, cán cân quân sự trên chiến trường bắt đầu cân bằng, cuộc chiến diễn ra trong thế giằng co, rơi vào tình trạng bế tắc, việc kết thúc chiến tranh bằng giải pháp chính trị trở nên cấp thiết. Ngày 10/7/1951, tại Kaesong, Đại diện của các bên tham chiến bắt đầu các cuộc đàm phán và đến ngày 27/7/1953 ký kết thỏa thuận ngừng bắn.

Theo thống kê chính thức của Trung Quốc, chiến tranh Triều Tiên đã làm thương vong 390.000 binh sĩ Trung Quốc; trong đó: 110.400 thiệt mạng trong chiến đấu, 21.600 chết vì thương vong, 13.000 chết vì bệnh tật, 25.600 mất tích. Ngoài ra, 260.000 người Trung Quốc mang thương tật vĩnh viễn, 14.000 tù binh Trung Quốc thay vào quyết định trở về đã dời đến Đài Loan. Tuy nhiên, theo số liệu của các nhà nghiên cứu Phương Tây, con số thiệt hại của quân đội Trung Quốc lớn hơn nhiều, vào khoảng từ 500.000 đến 1 triệu người.

Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung – Xô, làm cho quan hệ Xô –Trung vốn tiềm ẩn những bất ổn, chuyển hẳn sang trạng thái căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh không đáng tin cậy. Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động và thái độ của Liên Xô: 1- Trung Quốc ngờ vực Liên Xô biến mình thành “tấm lá chắn an ninh” ở khu vực Đông Á; 2- Trái với mong đợi của Trung Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại, sau chiến tranh, Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu USD; 3- Cuộc chiến tranh mang tiếng chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, song phần lớn chi phí chiến tranh đè nặng trên vai người Trung Quốc, Liên Xô hỗ trợ ít ỏi và không kịp thời. Chiến tranh Triều Tiên còn buộc Trung Quốc phải hoãn lại kế hoạch giải phóng Đài Loan – thành lũy cuối cùng của Quốc Dân Đảng. Sau xung đột Triều Tiên, Hoa Kỳ xem xét lại chiến lược trong khu vực, tuyên bố sẵn sàng và kiên quyết bảo vệ Đài Loan nếu bị tấn công. Từ đó đến nay, Trung Quốc chưa có cơ hội thống nhất đất nước trọn vẹn như ý nguyện của Mao Trạch Đông.

Cuối cùng, với các bên liên quan, như trong mọi cuộc chiến tranh,”được và mất”, “chiến thắng và chiến bại” trong chiến tranh Triều Tiên là những khái niệm thật khó so đo. Vẫn còn đó đằng sau những toan tính của các siêu cường là đau đáu khát khao thống nhất đất nước của người Triều Tiên chưa thành hiện thực. Ngày hôm nay, bán đảo Triều Tiên vẫn là một điểm nóng của thế giới, chất chứa mâu thuẫn, tiềm ẩn những nguy cơ và xung đột.

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN

Tags: , ,