Thực chất tình hình tại biển Đông qua cái nhìn chuyên gia phương Tây

Các vấn đề tại Biển Đông vốn đã xảy ra trong một khoảng thời gian dài, đặc biệt là giữa các bên có yêu sách ở khu vực này. Gần đây, những vấn đề trên trở nên phức tạp hơn do những tính toán chiến lược không chỉ của các bên có tranh chấp, mà còn của cả các nước lớn bên ngoài khu vực.

Thực chất tình hình tại biển Đông qua cái nhìn chuyên gia phương Tây

Bài viết của nhà nghiên cứu người Pháp Valérie Niquet, được đăng trên trang Frstrategie ngày 24/7/2019

Đến năm 2018, Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 7 thực thể địa lý không được gọi là đảo trong quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục thực hiện các hoạt động san lấp, bồi đắp và cải tạo các cấu trúc địa lý ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc không tiến hành thêm sự chiếm đóng mới nào, và nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 31 được tổ chức tại Manila vào tháng 11/2017, Bắc Kinh đã tuyên bố sẵn sàng nối lại các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) – đã được khởi xướng từ năm 2013.

Dự thảo khung COC đã được thông qua từ tháng 8/2018 tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 51 ở Singapore. Tuy nhiên, từ thời điểm đó cho đến nay, các bên vẫn chưa cho thấy có dấu hiệu quá rõ ràng nào về việc COC sẽ sớm trở thành một bộ luật có tính ràng buộc về mặt pháp lý.

Những diễn biến theo hướng hòa dịu trong mối quan hệ ASEAN – Trung Quốc là một trong những hệ quả tích cực của phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài – bác bỏ mọi yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Thực vậy, dù không công nhận phán quyết của Tòa trọng tài, Trung Quốc vẫn cần tìm cách củng cố vị thế đang suy yếu của họ ở Đông Nam Á. Trong một bối cảnh chiến lược rộng lớn hơn, việc Donald Trump lên nắm quyền đã làm gia tăng những rủi ro và Bắc Kinh cũng lo ngại Mỹ tăng cường cam kết với các nước Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông.

Trong chiến lược xoa dịu của Bắc Kinh có những đề xuất về Con đường tơ lụa trên biển đối với một số quốc gia, bao gồm cả những nước ASEAN.

Tranh chấp biển giữa Trung Quốc với Philippines (nước giữ chức Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2017) dường như không có hồi kết, nhưng kể từ khi Tổng thống Duterte lên nắm quyền vào năm 2017, Manila đã không đề cập tới phán quyết mà Tòa trọng tài đưa ra, cho dù có lợi cho Philippines. Duterte theo đuổi một chiến lược mềm mỏng với Trung Quốc, để đổi lấy những hứa hẹn về viện trợ kinh tế và việc ngư dân Philippines được phép tiếp cận các nguồn thủy sản tại những khu vực mà cả hai bên tuyên bố chủ quyền, trong đó có bãi cạn Scarborough.

Trung Quốc không từ bỏ những tham vọng ở Biển Đông

Trong năm 2017 và 2018, Trung Quốc áp dụng lập trường ít hung hăng hơn, song không vì thế mà họ từ bỏ tham vọng kiểm soát Biển Đông. Nước này không ngừng quân sự hóa các bãi cát hay các bãi đá mà họ chiếm giữ, đồng thời xây dựng các đường băng có thể tiếp nhận máy bay ném bom chiến lược, phát triển năng lực phòng không, các phương tiện quan sát (radar) và xây dựng hạ tầng cảng biển. Tháng 5/2018, lần đầu tiên máy bay ném bom chiến lược H6K của Trung Quốc, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, đã cất, hạ cánh trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa nhằm thể hiện sự kiểm soát của Trung Quốc đối với quần đảo này. Trước đó, vào tháng 4/2018, Trung Quốc đã triển khai các tên lửa đất đối biển và tên lửa đất đối không trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông, gồm Đá Chữ Thập, Đá Subi, Đá Vành Khăn mà họ đang ráo riết bồi đắp và quân sự hóa.

Những động thái trên của Trung Quốc đối với các thực thể địa lý ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã khiến Bắc Kinh có thể mở rộng khả năng phô trương sức mạnh vươn tới biên giới Indonesia và Nam Thái Bình Dương, cũng như tăng cường các cuộc tuần tra và tập trận không quân và hải quân. Theo quan điểm chiến lược, một chiến lược chống tiếp cận/ chống xâm nhập (A2/AD) của Trung Quốc nhằm gia tăng phạm vi hành động của nước này tại châu Á, việc Biển Đông có thể được nước này biến thành một pháo đài trong trường hợp xảy ra xung đột để bảo vệ các hòn đảo nằm cách xa lục địa, nhất là bảo vệ các hòn đảo có diện tích nhỏ, là điều hết sức ảo tưởng.

Bất chấp những cam kết với các nước láng giềng Đông Nam Á về việc đàm phán COC, Bắc Kinh công khai cho rằng các hoạt động bồi đắp và quân sự hóa được thực hiện trong năm 2017 là hợp lý và chính đáng. Tờ Thời báo Hoàn cầu còn cho rằng: “Trung Quốc hoàn toàn có quyền xây dựng bất cứ thứ gì họ thấy cần thiết trên Biển Đông để bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia”…

Vả lại, một trong những ưu tiên của Tập Cận Bình là chiến lược bành trướng hàng hải trên Biển Đông. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được giao cho Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Mặc dù Trung Quốc có thái độ thận trọng hơn kể từ năm 2016, nhưng điều đó không ngăn được những căng thẳng tiếp diễn ở Biển Đông. Trước việc Trung Quốc tăng cường các cuộc diễn tập trong khu vực, kéo theo sự hiện diện của các tàu hải quân và lực lượng cảnh sát biển, các vụ va chạm trên biển đã gia tăng, trong đó một số vụ va chạm liên quan đến Mỹ. Sức mạnh hải quân của Trung Quốc không ngừng phát triển: Bắc Kinh có lực lượng cảnh sát biển lớn nhất thế giới, với hơn 200 tàu, trong đó nhiều tàu mới đóng có tải trọng hơn 1.500 tấn. Kể từ tháng 12/2018, lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc được đặt dưới sự chỉ đạo của Quân ủy trung ương do Tập Cận Bình đứng đầu.

Một thách thức chiến lược ngày càng tăng đối với các nước trong khu vực

Tuy không liên quan trực tiếp đến các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, Indonesia đã tái khẳng định mong muốn tăng cường bảo vệ chủ quyền trên biển, đặc biệt liên quan đến việc khai thác tài nguyên thủy sản và tài nguyên dầu khí tiềm tàng. Năm 2017, Indonesia đã công bố Bản đồ quốc gia, trong đó nước này đổi tên khu vực phía Nam Biển Đông thành Biển Bắc Natuna nhằm khẳng định phạm vi vùng biển thuộc quyền chủ quyền của mình.

Malaysia vốn dĩ luôn dành ưu tiên cho một lập trường ít đối đầu với Trung Quốc, nhưng kể từ kể từ khi Thủ tướng Mohamad Mahathir quay trở lại cầm quyền vào năm 2018, Chính phủ nước này đã không ngừng nhắc lại sự phản đối của họ đối với khái niệm “đường 9 đoạn” mà Bắc Kinh tuyên bố, đồng thời tái khẳng định mong muốn Trung Quốc tôn trọng Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) và giải quyết mọi tranh chấp với các bên liên quan trong khu vực bằng con đường thương lượng. Vấn đề Biển Đông càng đóng một vai trò sống còn đối với Malaysia, bởi nước này bị tách làm 2 phần giữa Đông Malaysia và Malaysia bán đảo.

Về phần mình, Philippines luôn ở tuyến đầu trong các cuộc đối đầu với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, cho dù việc Tổng thống Duterte lên nắm quyền vào năm 2016 đã phần nào thay đổi cục diện trong mối quan hệ với Trung Quốc. Duterte đã lựa chọn việc xích lại gần Bắc Kinh và đặc biệt là không đòi hỏi thực thi phán quyết của Tòa trọng tài. Kể từ khi Duterte trở thành tổng thống Philippines, nhiều cuộc trao đổi cấp cao nhất đã diễn ra giữa Bắc Kinh và Manila, đặc biệt phải kể đến chuyến thăm Philippines của Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2018. Đồng thời, với mong muốn tận dụng những ưu đãi kinh tế của Bắc Kinh, Tổng thống Philippines đã khẳng định rằng ông sẽ không dùng vũ lực để phản đối những yêu sách của Trung Quốc, đặc biệt liên quan tới bãi cạn Scarborough, nhưng ông cũng tìm cách duy trì trò đi thăng bằng với các cường quốc khác trong khu vực, đặc biệt với Úc và Nhật Bản. Được biết, Nhật Bản đã cung cấp tàu tuần tra bảo vệ bờ biển cho Philippines trong kế hoạch giúp nước này tăng cường năng lực quân sự trên biển…

Tương tự, quan hệ giữa Philippines và Mỹ không bị phá vỡ, mà trái lại được củng cố kể từ khi Donald Trump lên nắm quyền, đặc biệt với việc Mỹ triển khai quân đội đến Philippines nhằm chống lại lực lượng Hồi giáo nổi loạn tại Mindanao, miền Nam Philippines, vào năm 2017.

Riêng Việt Nam luôn coi vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là mối quan tâm chiến lược hàng đầu. Theo quan điểm của Hà Nội, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức đa chiều liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là việc Bắc Kinh gây sức ép ngăn cản mọi hoạt động khảo sát thăm dò trong các khu vực mà Trung Quốc đòi chủ quyền, trong khi ngược lại, Trung Quốc vẫn công khai tiến hành các hoạt động thăm dò trong các khu vực mà họ kiểm soát nằm ngoài khuôn khổ luật pháp quốc tế. Tháng 7/2017, Việt Nam đã phải ngừng các hoạt động thăm dò dầu khí tại lô 136-03 do sự cản trở từ phía Trung Quốc.

Ngoài những thách thức liên quan đến lãnh thổ, việc phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) cũng là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Cũng như Philippines, trước các động thái hung hăng của Trung Quốc, Việt Nam đã theo đuổi chính sách tích cực, cân bằng chiến lược hướng sang Mỹ và Nhật Bản.

Cuối cùng, ngoài vấn đề khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ vốn đòi hỏi sự đầu tư tốn kém về công nghệ, việc bảo vệ các khu vực đánh cá chống lại sự xâm nhập của Trung Quốc đã trở thành một vấn đề quan trọng với tất cả các chủ thể khu vực và ngoài khu vực.

Những bước đi của Trung Quốc có thực sự làm thay đổi nguyên trạng?

Trung Quốc đã huy động một loạt phương tiện khác nhau để làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Trung Quốc đã phê chuẩn UNCLOS vào năm 1996, nhưng vẫn giữ lập trường trước đây – điều này đặc biệt được thể hiện trong luật pháp Trung Quốc về các đặc khu kinh tế và thềm lục địa mà Quốc hội nước này thông qua vào ngày 20/6/1998.

Lập trường của Trung Quốc về việc thực thi UNCLOS đã cho thấy rõ cách thức Bắc Kinh khẳng định vị thế của mình trong mối quan hệ với quốc tế. Dù Trung Quốc đã ký kết và phê chuẩn UNCLOS, nhưng dường như việc nước này tôn trọng các quy tắc đã cam kết trên thực tế phụ thuộc vào tương quan lực lượng vốn luôn biến động và những lợi ích mà Chính phủ Trung Quốc xác định.

Tương tự, với những nền tảng pháp lý thậm chí còn yếu ớt hơn, Trung Quốc đang cố gắng mở rộng khái niệm “quyền lịch sử” để từng bước áp đặt ảnh hưởng của họ ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Cùng với việc tiến hành các hoạt động san lấp, bồi đắp và tôn tạo trái phép đối với các cấu trúc địa lý ở các vùng biển này nhằm củng cố các yêu sách lãnh thổ, Trung Quốc còn sử dụng các thủ đoạn pháp lý nhằm làm thay đổi lập trường của các nước láng giềng hướng đến việc công nhận một thực trạng mới của những cấu trúc này.

Tuy nhiên, bất chấp những cố gắng kể trên, chiến lược của Bắc Kinh đã vấp phải nhiều thất bại, trong đó đặc biệt phải kể đến phán quyết của Tòa trọng tài vào ngày 12/6/2016 – được xem như là thất bại lớn nhất của Bắc Kinh về mặt pháp lý và làm tổn hại hình ảnh của Trung Quốc. Phán quyết đã được đón nhận và hoan nghênh rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt ở Đông Nam Á và Nhật Bản, thúc đẩy tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế, và xác nhận thêm sự cô lập của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Đặc biệt, bất chấp sự hấp dẫn của các dự án Con đường tơ lụa nhằm giành lại sự ủng hộ của các nước trong khu vực, chiến lược hung hăng của Bắc Kinh kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền đã kích động các chiến lược đối phó của khu vực nhằm tái cân bằng sức mạnh của Trung Quốc.

Ở phạm vi ASEAN, những sáng kiến khu vực đã được đưa ra nhằm gián tiếp ngăn chặn những bước tiến của Trung Quốc trong khu vực. Về phần mình, Indonesia đã xây dựng chính sách đại dương mới nhấn mạnh nhiệm vụ phòng thủ biển, giữ gìn trật tự và an ninh trước những nguy cơ mới liên quan đến môi trường biển và hoạt động đi lại trên Biển Đông.

Ở Malaysia, lập trường cứng rắn của Chính phủ nước này đối với Trung Quốc được củng cố với sự quay trở lại cầm quyền của Thủ tướng Mahathir – người có lập trường ít hòa giải với Bắc Kinh và đã hủy bỏ những hợp đồng mà người tiền nhiệm đã ký với Bắc Kinh trong khuôn khổ các dự án thuộc sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Đồng thời, Chính phủ Malaysia cũng lên kế hoạch tăng cường năng lực bảo vệ bờ biển với các phương tiện mới để đối phó với những hành động xâm nhập của Trung Quốc.

Cuối cùng, vào tháng 6/2017, Indonesia, Malaysia và Philippines đã thực hiện các cuộc tuần tra chung trên biển chính thức là để chống lại hoạt động cướp biển trong khu vực Sulawesi, mặt khác cũng nhằm mục đích kiểm soát tốt hơn các đường biên giới biển của 3 quốc gia này, đặc biệt để chống lại các hành động xâm nhập của các tàu đánh cá Trung Quốc. Bắc Kinh, nhận thức được những nguy cơ, đã mượn danh nghĩa “quyền đánh cá lịch sử” của họ để lên tiếng phản đối.

Nguy cơ quốc tế hóa xung đột?

Trong khi Trung Quốc hy vọng có thể ngăn cản những phản ứng mạnh mẽ của các nước láng giềng liên quan tới tình hình căng thẳng ở Biển Đông và biển Hoa Đông – vốn có lợi cho họ do sự vượt trội về sức mạnh kinh tế và quân sự so với toàn bộ các nước láng giềng, chúng ta lại chứng kiến xu hướng quốc tế hóa xung đột, đặc biệt kể từ khi Tòa trọng tài ra phán quyết về tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc. Những phản ứng và các biện pháp chống Trung Quốc đã vượt ra khỏi khuôn khổ khu vực.

Ở Mỹ, Donald Trump chủ trương bảo vệ trước hết các lợi ích của Mỹ (theo tinh thần của khẩu hiệu “Nước Mỹ trước tiên”) và nếu như trong những tháng sau khi Trump đắc cử tổng thống Mỹ, người ta lo ngại Biển Đông và biển Hoa Đông sẽ trở thành con tốt trong ván bài giữa Washington và Bắc Kinh về các vấn đề thương mại và Triều Tiên, thì chính sự kiên định chiến lược của Mỹ đã khiến Trung Quốc thất vọng.

Vụ rắc rối xảy ra hồi tháng 9/2018 giữa một tàu Trung Quốc và một tàu Mỹ càng thúc đẩy Mỹ khẳng định sự hiện diện của họ ở Biển Đông, đặc biệt với việc Mỹ nối lại các hoạt động trong chương trình tự do hàng hải (FONOP) ở các vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc coi động thái này của Mỹ là hành vi khiêu khích, ảnh hưởng đến chủ quyền và lợi ích sống còn của Trung Quốc, như vậy càng kích thích Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự tại Biển Đông, nhất là tại các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái pháp phép. Năm 2018, Washington cũng rút lời mời Trung Quốc tham gia cuộc tập trận hải quân Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) – một cuộc trận chung quốc tế do Mỹ chủ trì, với sự tham dự của hơn 20 nước từ khắp nơi trên thế giới. 2 năm trước, Mỹ đã mời Trung Quốc tham gia cuộc tập trận chung này như là một dấu hiệu của sự cởi mở. Mỹ cũng tiếp tục chiến lược xích lại gần các nước trong khu vực đang phải đối phó với các hành động của Trung Quốc, đặc biệt là Việt Nam và Philippines.

Chiến lược này của Mỹ được thực hiện với sự trợ giúp của đồng minh Nhật Bản. Được biết, kể từ khi áp dụng quy chế mới xuất khẩu quân sự, linh hoạt hơn vào năm 2014, Nhật Bản đã cung cấp trang thiết bị quân sự như tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam và Philippines, đồng thời tham gia huấn luyện cho các thủy thủ tàu ngầm của Việt Nam. Đặc biệt, luật quốc phòng mới được Nhật Bản thông qua vào năm 2015 và 2016 đã cho phép lực lượng phòng vệ nước này tham gia các cuộc tuần tra chung, kể cả ở Biển Đông. Mùa Thu năm 2018, Nhật Bản đã lần đầu tiên đưa một tàu ngầm đến Biển Đông.

Trên thực tế, Nhật Bản có cùng với các nước láng giềng Đông Nam Á mối lo ngại trước những bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Năm 2018, Tokyo đã thông qua Đường lối chỉ đạo mới nhằm phát triển năng lực của lực lượng phòng vệ Nhật Bản, đặc biệt có kế hoạch nâng cấp chiến hạm khu trục Izumo thành tàu sân bay. Tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tháng 6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản cũng đã thể hiện lập trường rất mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông, đồng thời đã nhắc lại phán quyết của Tòa trọng tài.

Dù xa hơn về mặt địa lý, châu Âu cũng thay đổi lập trường theo hướng bất lợi hơn đối với Trung Quốc. Các nước châu Âu sẽ tăng cường sự có mặt ở Biển Đông trong khuôn khổ chính sách kiềm chế Trung Quốc của Liên minh châu Âu (EU), đồng thời tiếp tục hiện diện mạnh mẽ hơn ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trong đó có việc thực hiện các chiến dịch trên biển nhằm chống lại các hoạt động gây lo ngại của Trung Quốc trong khu vực. Trong một cuộc thảo luận về vai trò của EU trong khu vực, bà Liselotte Odgaard, chuyên gia của Viện Hudson, một tổ chức nghiên cứu tại Washington (Mỹ), cho biết: “EU sẽ có đường lối chính sách chung nhằm chống sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và thúc đẩy tự do hàng hải”. Chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông cũng góp phần mạnh mẽ thúc đẩy châu Âu xem xét lại những nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa bình mà EU đặc biệt coi trọng.

Các nước châu Âu can dự tích cực nhất trong vấn đề Biển Đông, đứng đầu là Pháp (vốn có nhiều lợi ích trực tiếp trong khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương và duy trì ở đó các lực lượng tiền tiêu), đã đưa ra những tuyên bố cứng rắn đi kèm với những biện pháp cụ thể để đối đầu với Trung Quốc.

Tháng 6/2018, tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly đã nhắc lại việc nước này luôn tôn trọng nguyên tắc tự do đi lại trên mọi vùng biển. Tương tự, bài phát biểu của Tổng thống Emmanuel Macron tại Úc vào năm 2017 và năm 2019 (nhân dịp ký hợp đồng bán tàu ngầm cho Úc), đề cập đến việc Pháp tham gia sáng kiến “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” – là câu trả lời cho chiến lược hàng hải hung hăng của Trung Quốc. Tương tự, việc các tàu của Pháp và Anh qua lại trên Biển Đông, bất chấp những cảnh báo từ các tàu của Trung Quốc, là nhằm khẳng định lại các quy tắc tự do đi lại trên biển.

Kết luận

Những căng thẳng ở Biển Đông đã không hề suy giảm, cho dù năm 2018 Trung Quốc không có thêm hành động xâm chiếm mới nào đối với các thực thể biển đang tranh chấp. Trên thực tế, những động thái rút lui của của Trung Quốc chỉ mang tính chiến thuật nhằm xoa dịu các nước láng giềng, hạn chế những hậu quả tiêu cực đối với hình ảnh của Trung Quốc và ngăn chặn sự hình thành các liên minh trong và ngoài khu vực.

Những nguyên nhân căng thẳng vẫn luôn hiện diện. Liên quan tới các nguồn tài nguyên, ngoài vấn đề năng lượng, việc tiếp cận các ngư trường ngày càng trở nên quan trọng và là nguyên nhân của phần lớn các vụ rắc rối giữa Trung Quốc với các nước ven Biển Đông. Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh sức mạnh giữa Mỹ và Trung Quốc cũng được thể hiện ở Biển Đông. Trong quan điểm của Bắc Kinh, sự khó lường của tổng thống Mỹ làm tăng nguy cơ xảy ra những vụ rắc rối và buộc Trung Quốc phải thận trọng nhiều hơn. Về lý thuyết, một Biển Đông do Trung Quốc hoàn toàn kiểm soát có thể đóng vai trò là một pháo đài của các lực lượng Trung Quốc, song hiện tại khả năng này vẫn còn rất xa vời đối với năng lực thực sự của Bắc Kinh trong trường hợp xảy ra xung đột.

Kịch bản có khả năng nhất trong ngắn hạn là sự ổn định với các giai đoạn căng thẳng và hòa hoãn xen kẽ nhau, tùy thuộc vào phản ứng của các “địch thủ” của Bắc Kinh, mà đứng đầu là Mỹ.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG

Tags: ,