Sự tương đồng kỳ lạ giữa văn học cổ Việt Nam và Triều Tiên

Nằm trong quỹ đạo Khu vực văn hóa chữ Hán (Hán tự văn hóa quyển) từ đầu công nguyên, Việt Nam và Triều Tiên – Hàn Quốc đã bắt đầu hình thành nền văn học viết của mình. Do những điều kiện địa lý, kinh tế, lịch sử tương cận: cùng phương thức kinh tế trồng lúa nước, cùng là nước nhỏ nằm bên cạnh một quốc gia lớn, cùng có lịch sử chống ngoại xâm giữ gìn độc lập dân tộc… Việt Nam và Triều Tiên – Hàn Quốc có nền văn học giống nhau một cách kỳ lạ.

Sự tương đồng kỳ lạ giữa văn học cổ Việt Nam và Triều Tiên

Bài viết của tác giả Đoàn Lê Giang – PGS. TS, Khoa Văn học và Ngôn ngữ , Trường Đại học KHXH và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM.

Nguồn: Tham luận đăng trong kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Văn học Hàn Quốc trong bối cảnh châu Á” (International Conference on Korean Literature in Asian Perspective) do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Tp. HCM tổ chức dưới sự tài trợ của Viện Nghiên cứu văn hóa trung ương Hàn Quốc (The Academy of Korean Studies) vào ngày 07 ~ 08/01/2014.

Có nhiều cách để miêu tả diễn trình văn học Việt Nam và Triều Tiên – Hàn Quốc, trong đó cách thức cổ điển nhất là miêu tả diễn trình ấy theo các triều đại. Như vậy thì văn học văn học Triều Tiên – Hàn Quốc có thể chia ra thành các thời như sau:

– Triều Tiên/ Choson cổ đại(1): từ đầu đến TK.1 tr.CN
– Tam quốc: 57 tr.CN-TK.7
– Tân La/ Silla thống nhất: TK.7-TK.10
– Thời Cao Ly/ Koryo: TK.10-TK.14
– Thời Triều Tiên/ Choson (vương triều Lý/ Yi): TK.15-đầu TK.20

Còn văn học Việt Nam: thời Hùng vương, thời Bắc thuộc (và chống Bắc thuộc), rồi Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ v.v.

Tuy nhiên miêu tả như thế sẽ thấy chúng rời rạc, mà không thấy được những đặc tính chung, cũng như quá trình phát triển của chúng. Vì vậy chúng tôi thấy cần thiết phải sử dụng một mô hình chung, phổ quát cho các nước. Mô hình này đối với từng nước cũng có rất nhiều tranh cãi, để trình bày về những quan niệm ấy cũng phải có một bài viết riêng, ở đây chúng tôi xin bỏ qua việc thuật lại những tranh cãi ấy, trên cơ sở những tư liệu tham khảo được, xin đưa ra mô hình như sau:

– Văn học thời kỳ cổ đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: gồm các thời Triều Tiên cổ đại, Tam quốc, Tân La/ Silla thống nhất (từ đầu – cuối TK.10).

Việt Nam: thời Hùng Vương và thời Bắc thuộc (từ đầu – TK.10).

Đây là thời kỳ phôi thai của văn học viết, văn học đi những bước đầu tiên chuẩn bị cho sự ra đời của nền văn học dân tộc. Văn học còn gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, các thể loại văn học chức năng chiếm địa vị quan trọng.

– Văn học thời kỳ trung đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: Từ đầu thời Cao Ly/ Koryo cho đến cuối thời Triều Tiên/ Choson (TK.10- cuối TK.19).

Việt Nam: Từ thời Ngô (năm 938) đến cuối triều Nguyễn (cuối TK.19).

Đây là thời kỳ thời văn học gắn với xã hội phong kiến. Thời kỳ này có thể chia ra thanh ba giai đoạn:

Tiền kỳ trung đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: Thời Cao Ly (TK.10 – TK.14)

Việt Nam: Từ Ngô đến hết đời Trần (TK.10 – TK.14)

Đây là giai đoạn đầu tiên của văn học thời kỳ trung đại. Văn học viết các nước đều quan tâm đến vấn đề khẳng định độc lập dân tộc. Tư tưởng, nghệ thuật đều chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo.

Trung kỳ trung đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: Nửa đầu thời Triều Tiên/ Choson của vương triều Lý (TK.15- cuối TK.17).

Việt Nam: Lê sơ đến đầu thời Trịnh Nguyễn phân tranh (TK.15 – cuối TK.17).

Đây là giai đoạn phát triển tiếp theo của văn học trung đại với những tính chất đặc trưng, điển hình nhất của thời trung đại.

Hậu kỳ trung đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: Nửa cuối thời Triều Tiên của vương triều Lý (TK.18 – cuối TK.19)

Việt Nam: Lê mạt đến khi phong trào Cần vương bị dập tắt (TK.18-cuối TK.19)

Đây là giai đoạn cuối cùng của thời trung đại – giai đoạn khủng hoảng sâu sắc của chế độ phong kiến, cũng là giai đoạn phát triển mạnh của đô thị phong kiến, chuẩn bị bước sang thời cận đại. Tính chất nổi bật của văn học giai đoạn này là việc tăng cường tính hiện thực, tính chất bình dân, ý thức về cái tôi (tự ngã) càng ngày càng rõ nét.

– Văn học thời kỳ cận đại:

Triều Tiên-Hàn Quốc: Phong trào Khai hoá cho đến Thế chiến II kết thúc (cuối TK.19-1945)

Việt Nam: Phong trào Duy tân cho đến Thế chiến II kết thúc (đầu TK.20 – 1945)

Đây là thời kỳ gắn với quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa giai đoạn đầu ở các nước.

Cách chia như trên căn cứ vào nhiều công trình viết về lịch sử, văn hoá, văn học các hai nước, nói chung không gây tranh cãi nhiều lắm. Theo cách gọi phổ biến của nhiều bộ văn học sử Triều Tiên – Hàn Quốc, Việt Nam, chúng tôi sử dụng khái niệm: “Văn học cổ điển”, “Văn học hiện đại” để chỉ toàn bộ văn học các nước trước và sau khi chịu ảnh hưởng Phương Tây. Cách chia này có tính đại lược căn cứ chủ yếu vào ngôn ngữ, mà không loại trừ các cách gọi Cổ đại, Trung đại, Hiện đại… với tư cách là thuật ngữ của phân kỳ văn học.

Ở mỗi mục chúng tôi đều bắt đầu bằng những ảnh hưởng của Trung Quốc, tình hình cụ thể của mỗi nước, rồi mới đến phần văn học. Trong bối cảnh như thế chúng ta sẽ thấy rất rõ quá trình phát triển, những điểm chung có tính quy luật và những điểm đặc thù của văn học cổ điển Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc.

I. VĂN HỌC VIỆT NAM, HÀN QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

– Thời cổ đại của Triều Tiên: gồm các thời Triều Tiên cổ đại, Tam quốc, Tân La/ Silla thống nhất (từ đầu – cuối TK.10)
– Việt Nam: từ cuối thời Hùng Vương đến hết thời Bắc thuộc (từ đầu – TK.10)

Văn hóa đời Hán và việc Triều Tiên – Hàn Quốc, Việt Nam gia nhập khu vực văn hóa Đông Á

Trước đời Hán có thể nói chưa có vùng văn hóa Đông Á, hiểu theo nghĩa là khu vực văn hóa chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như giới nghiên cứu thường gọi: khu vực văn hóa chữ Hán / Hán tự văn hóa quyển bao gồm các nước: Trung Quốc, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Cho đến thế kỷ 2 tr.CN, quần đảo Nhật Bản vẫn còn tồn tại hàng trăm “tiểu quốc” – tức là các thị tộc, có nguồn gốc rất khác nhau: gốc du mục Bắc Á liên quan đến ngữ hệ Uran – Altai, gốc Siberi của người da trắng nguyên thủy (người Ainu ở phía bắc Nhật Bản), gốc Đông Nam Á lục địa và hải đảo… Bán đảo Triều Tiên cũng tồn tại cả hai bộ phận như vậy: Đông Nam Á (lục địa và hải đảo) và Bắc Á (người Mãn Châu, chủ nhân của nền văn minh Triều Tiên/ Choson cổ đại). Việt Nam lúc bấy giờ vẫn gắn bó chặt chẽ với vùng văn hóa Đông Nam Á, việc liên kết giữa các thị tộc ở lưu vực sông Hồng và sông Mã đã có từ sớm nhưng còn chưa thật chặt chẽ. Vào thời gian ấy vùng văn hóa Đông Á, hiểu theo nghĩa văn hóa chịu ảnh hưởng Trung Hoa chưa ra đời.

Công cuộc thống nhất Trung Quốc của nhà Tần (221 – 206 tr.CN) đã tạo tiền đề cho văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng ra các nước xung quanh. Nhà Tần sụp đổ, nhưng nền thống nhất mà nó đã tạo nên bằng thanh gươm vẫn còn đó, nhà Hán tiếp tục kế thừa. Triều đại nhà Hán (206 tr.CN – 220 sau CN) là triều đại hưng thịnh nhất so với các triều đại từ trước đến bấy giờ, đế quốc Hán là đế quốc hùng mạnh nhất thế giới đương thời. Sự bùng nổ của nền văn minh triều Hán đã tạo điều kiện cho vùng văn hóa Đông Á – “Vùng văn hóa chữ Hán” ra đời.

Vào cuối thế kỷ 4 – đầu TK.3 tr.CN, nước Yên, rồi nhà Tần xâm chiếm các vùng đất phía bắc của nhà nước Triều Tiên cổ đại. Sau đó Vệ Mãn/ Wiman thành lập nhà nước Vệ Mãn Triều Tiên/ Wiman Choson độc lập, tổ chức theo mô hình Trung Hoa. Năm 108 tr.CN nhà Hán chinh phục quốc gia Vệ Mãn Triều Tiên do cháu nội của Vệ Mãn cầm quyền, rồi chia quốc gia ấy thành ba quận: Lạc Lãng/ Lolang, Chân Phiên/ Chenfan, Lâm Đồn/ Lintun, năm sau, lại đặt thêm một quận nữa là Huyền Thổ/ Hsuantu.

Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với Trung Hoa kể từ cuộc xâm lược của quân đội nhà Tần do Hiệu úy Đồ Thư chỉ huy. Từ chiến thắng của người Âu Việt và Lạc Việt trước đội quân xâm lược nhà Tần mà hai nước này đã thống nhất lại thành nước Âu Lạc đứng đầu là Thục Phán-An Dương Vương. Sau đó ít lâu An Dương Vương để nước Âu Lạc rơi vào tay vua nước Nam Việt là Triệu Đà. Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Vệ úy Lộ Bác Đức đem hơn 10 vạn binh đến xâm lược nước Nam Việt của con cháu Triệu Đà, chia đất Âu Lạc cũ thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Sự kiện ấy đã mở ra một thời kỳ dài trong lịch sử Việt Nam: 1000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong suốt thời kỳ ấy, văn hóa Trung Hoa ồ ạt truyền vào nước ta, tách nước ta ra khỏi vùng văn hóa Đông Nam Á cũ, cuốn vào vùng văn hóa chữ Hán mà trung tâm là Trung Hoa.

Như vậy kể từ đời Hán, khu vực văn hóa Đông Á với Trung Hoa, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đã hình thành. Về văn học, các xứ sở này trước đây đều đã có một nền văn học dân gian phong phú và đặc sắc, nhất là thần thoại truyền thuyết, nhưng văn học viết thì chưa. Số phận lịch sử đã đưa các dân tộc này gắn bó với nhau trong vùng văn hóa chữ Hán, từ đó đã tạo nên nền văn học viết của mỗi dân tộc với thơ văn phú lục theo mô hình Trung Hoa viết bằng Hán văn, sau đó hình thành nền văn học viết bằng tiếng nói của mỗi dân tộc.

Phật giáo Trung Hoa và việc hình thành khuynh hướng văn học Phật giáo Bắc tông ở Việt Nam, Triều Tiên-Hàn Quốc

Thế kỷ 3 tr.CN, ở Ấn Độ đã diễn ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ 3 với 1000 vị A La Hán do Hoàng đế A Dục khởi xướng và bảo trợ. Sau cuộc kết tập này, hoàng đế A Dục lệnh cho các phái đoàn tăng lữ đi ra các nước để truyền bá đạo Phật. Trước hết Phật giáo truyền vào Tích Lan (TK.3 tr.CN), sau đó truyền vào Trung Á, Trung Hoa (TK.1) (2).

Năm 67 thời Đông Hán, Hán Minh Đế sai Vương Tuân, Thái Hâm và 15 người khác sang nước Đại Nhục Chi (giáp ranh Ấn Độ) để rước tượng Phật về thờ và mời hai vị sư là Ca Diếp Ma Đằng (Kerssoapa Matanga) và Trúc Pháp Lan (Falan) qua Trung Hoa thuyết pháp.

Thời Tam Quốc (TK.3) Phật giáo phát triển mạnh ở cả ba nước: Ngụy, Thục, Ngô, mỗi nước đều có nhiều vị tăng từ Tây Vực sang truyền đạo. Nước Ngô có Khương Tăng Hội, Ngụy có Đàm Ma Ca La, Thục có Châu Tử Hàng. Khương Tăng Hội (229-280) sinh trưởng ở Giao Chỉ, là dịch giả bộ Lục độ tập kinh sang Hán văn. Năm 247 Khương Tăng Hội từ Giao Chỉ sang Kiến Nghiệp, kinh đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) truyền đạo và sống ở đó 33 năm cho đến khi mất.

Thời Tấn (265-316), Phật Giáo Trung Hoa bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ, gọi là “Thời kỳ hưng thịnh thứ nhất”. Có cao tăng Tây Vực là Phật Độ Trừng sang truyền đạo, được hàng vạn người quy ngưỡng. Ông đã đào tạo ra được đệ tử nổi tiếng là Đạo An Pháp Hoa. Sau đó Cưu Ma La Thập dịch rất nhiều kinh Phật: Kinh A Di Đà, Kinh Pháp hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cương… đưa đạo Phật lên vị trí cao trong đời sống tinh thần Trung Hoa. Các phái Tam luận tông và Thành thực tông ra đời trong giai đoạn này.

Thời Nam Bắc triều (420-589) được coi là “Thời kỳ hưng thịnh thứ hai” của Phật giáo Trung Hoa. Sư Huệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Bồ Đề Đạt Ma từ Thiên Trúc sang mở ra phái Thiền tông Trung Hoa. Đây là tông phái phát triển mạnh mẽ nhất ở Đông Á sau này, và là tông phái chủ yếu của Phật giáo Việt Nam. Sư Nam Nhạc lập ra phái Thiên Thai Tông. Lương Chiêu Minh thái tử tổ chức việc san định và chú giải kinh Phật. Kinh Phật thông qua Huyền học mà thâm nhập sâu vào đời sông tinh thần Trung Hoa.

Đời Đường (618-907) được coi là “Thời kỳ hưng thịnh thứ ba” của Phật giáo Trung Hoa. Sư Huyền Trang sang Ấn Độ học đạo 15 năm, sau đó mang về rất nhiều kinh sách. Ông là người có công đầu làm sáng tỏ giáo lý Pháp tướng tông Trung Hoa. Năm 676 Lục tổ Huệ Năng bắt đầu thuyết giảng về Thiền tông, tông phái ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong khu vực.

Ở Triều Tiên, ngưòi ta thường lấy sự kiện năm 372 sư Thuận Đạo từ đông bắc Trung Quốc đến Cao Câu Ly truyền giảng kinh Phật làm sự kiện mở đầu cho việc Phật giáo đến nơi này. 12 năm sau sư Ma La Nan Đà từ Đông Tấn sang Bách Tế/ Paeckche truyền bá đạo Phật. Khoảng giữa TK.5, Phật giáo đến Tân La/ Silla. Ngay từ đầu, triều đình các tiểu quốc này đã nhận ra giá trị của đạo Phât đối với đời sống tâm linh và nhất là đối với việc thống nhất đất nước, đoàn kết dân tộc. Tông phái quan trọng nhất ở bán đảo Triều Tiên giai đoạn đầu là Luật tông với vai trò đứng đầu của các sư Khiêm Ích ở Bách Tế, Từ Tàng ở Tân La. Bên cạnh Luật tông thì Mật tông cũng được truyền vào do các nhà sư từ Trung Á tới.

Đối với Việt Nam, thông thường người ta cho rằng Phật giáo truyền vào nước ta khoảng đầu công nguyên, bằng cả hai con đường: từ Ấn Độ lên bằng đường biển, từ Trung Hoa xuống bằng đường bộ. Có những nhà nghiên cứu cho thời điểm lưu truyền sớm hơn nữa. Nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng: Phật giáo truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương (khoảng TK.3 – 2 tr.CN) thông qua con đường Chiêm Thành, và người Phật tử Việt Nam đầu tiên là Chử Đồng Tử, học trò của nhà sư Phật Quang như huyền thoại Chử Đồng Tử và Tiên Dung có nói đến(3). Mặc dầu con đường truyền bá Phật giáo sớm nhất là từ phía Nam lên, nhưng Phật giáo nước ta chủ yếu là Phật giáo Đại thừa truyền từ Trung Quốc xuống. Đó cũng là Phật giáo chung của các nước Đông Á: Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, khác với Phật giáo Tiểu thừa của các nước Nam Á và Đông Nam Á. Những sự kiện sau đây cho thấy điều ấy:

Năm 580 theo lời khuyên của Tam tổ Tăng Xán(4), Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đi về phương Nam truyền đạo, đến nước ta, và sư đã trở thành vị khai tổ dòng Thiền Việt Nam.

Năm 820 Thiền sư Vô Ngôn Thông sang Việt Nam mở ra dòng Thiền thứ hai tại nước ta, tức là dòng Quan Bích hay còn gọi là dòng Vô Ngôn Thông.

Thời cổ đại có thể coi là thời kỳ manh nha của văn học Triều Tiên-Hàn Quốc, Việt Nam – manh nha về thể loại, về ngôn ngữ và về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm.

Vào thế kỷ 3, trên bán đảo Triều Tiên người ta đã bắt đầu sử dụng chữ Hán. Từ chữ Hán người ta đã sáng tạo ra loại chữ Idu (Lại độc: cách đọc của quan lại), tức là loại chữ Hán dùng để ghi âm Hàn theo kiểu giả tá âm. Các tác phẩm văn học đầu tiên được viết bằng chữ Hán và chữ Idu như thế.

Vào thời kỳ đầu tiên người ta thấy xuất hiện những tác phẩm hương ca/ hyangga mà nguồn gốc của nó có thể thấy khá rõ từ các bài chúc từ của saman giáo, các bài cầu nguyện của Phật giáo. Hyangga là thể thơ ngắn, có thể chia hyangga ra thành 3 loại: 10 dòng, 8 dòng và 4 dòng. Hiện nay còn tất cả 25 bài hyangga, trong đó 17 bài của các nhà sư, 3 bài của giới nho sĩ, và 2 bài do phụ nữ viết, còn lại thì khuyết danh. Bài Tuệ tinh ca/ Hyesseong-ga của sư Dung Thiên/ Yungchon tương truyền là khi hát lên có thể xua tan được sao chổi và đẩy lui được đội quân xâm lược Nhật Bản.

Vào thế kỷ 7, một nhà sư Silla đã viết cuốn Chú giải Tam tạng kinh pháp rất được chú ý.

Đối với văn học Việt Nam, thời kỳ văn học cổ đại là thời kỳ Bắc thuộc. Mặc dù văn học dân gian với thần thoại, truyền thuyết đã có từ lâu đời và rất phong phú, nhưng văn học viết vẫn còn đang trong thời kỳ phôi thai. Tương tự như Nhật Bản và Hàn Quốc, thành tựu văn học chủ yếu trong thời kỳ này là văn học Phật giáo, bên cạnh đó cũng còn sót lại một số thơ phú. Có thể kể ra đây những tác phẩm tiêu biểu của người Việt mà nhiều người cũng đã biết đến:

– TK.3 bản dịch Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, bản chú giải An ban thủ ý kinh, Pháp kính kinh của Khương Tăng Hội (người gốc Khương Cư, cha mẹ ông đến Giao Chỉ, ông được sinh ra và lớn lên ở đây)
– Giữa TK.5: Sáu bức thư của Đạo Cao, Pháp Minh gửi Lý Miễu
– 580-600: những bài thơ của Tì Ni Đa Lưu Chi và Pháp Hiền
– Năm 675 : bài thơ Điếu Đạo Hy pháp sư của Đại Thừa Đăng
– 766 Khương Công Phụ viết bài phú Bạch vân chiếu xuân hải, bài văn sách Đối trực ngôn cực gián sách trong kỳ thi tiến sĩ đời Đường Đức Tông
– Cuối TK.8- đầu TK.9: Thơ sấm vĩ của Thiền sư Định Không, bài minh chùa Thanh Mai
– 815: Bài thơ Đề lữ sấn của Liêu Hữu Phương
– 850: Bài kệ của Thiền sư Cảm Thành
– Cuối thế kỷ 9 xuất hiện bài Tống Mã Thực của một nho sĩ khuyết danh
– 900: Những bài thơ của sư La Quý An (5)

Như trên ta thấy, trước thế kỷ 8, ngoài việc chú dịch kinh Phật và thư từ trao đổi về Phật học ra, văn học viết của người Việt hầu như chưa có gì. Từ TK.7 đến TK.10, dưới tác động của chế độ giáo dục và những thành tựu rực rỡ của thơ ca đời Đường, cũng như sự phát triển của xã hội và tinh thần dân tộc mà văn học viết bắt đầu một giai đoạn tăng tốc. Mặc dù chỉ còn sót lại những mảnh vụn, nhưng qua những mảnh vụn ấy, người ta cũng có thể mường tượng ra ngôi nhà văn học viết của người Việt thời cổ đại cũng đã khá khang trang. GS.Trần Nghĩa thống kê trong giai đoạn ấy đã có ít nhất 24 người viết văn có tên tuổi: Pháp sư Định Không từng giảng kinh Phật tại Trường An và được thi sĩ Dương Cự Nguyên tặng thơ; Thượng nhân Vô Ngại có thơ xướng hoạ với thi sĩ Thẩm Thuyên Kỳ; một nhà sư Nhật Nam khuyết danh xướng hoạ với Trương Tịch; Thiền sư Duy Giám xướng hoạ với Giả Đảo… Tiếc rằng điều ấy ta chỉ biết được qua những bài thơ của các thi sĩ đời Đường chép trong Toàn Đường thi, còn bản thân các sáng tác của tác giả người Việt thì không còn nữa.

So với các nước trong khu vực, tình hình Việt Nam khá giống với Triều Tiên: văn học viết ra đời muộn, bị mất mát gần hết, văn học viết bằng tiếng nói dân tộc gần như chưa có. Trong khi đó văn học Nhật Bản còn lưu lại một số bài bằng ngôn ngữ và thể loại dân tộc.

II. VĂN HỌC TRIỀU TIÊN, VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TIỀN KỲ TRUNG ĐẠI

Các triều đại Trung Quốc lúc thịnh lúc suy, nhưng vẫn không ngừng xu thế bành trướng ra xung quanh. Điều ấy đặt ra cho các dân tộc Đông Á một thách thức lớn: muốn tồn tại được thì không có cách nào khác là phải tự cường tự trị và hấp thu mau chóng những thành quả tiên tiến của chính đất nước lân bang to lớn bên cạnh mình. Chỉ cần nghe tên gọi của các nước cũng đủ thấy khuynh hướng muốn khẳng định sức mạnh của mình trước Trung Hoa: Đại Hàn, Đại Hoà (Yamato), Đại Việt, Đại Nam.

Thời trung đại trong văn học là thời kỳ gắn với chế độ phong kiến của mỗi nước, từ khi chế độ đó bắt đầu đi vào ổn định (Tiền kỳ trung đại), phát triển lên đến đỉnh cao (Trung kỳ trung đại), rồi lâm vào khủng hoảng do sự suy yếu của triều đình trung ương và do sự phát triển của các đô thị phong kiến (Hậu kỳ trung đại). Thời trung đại đều kết thúc bằng cuộc xâm lược của phương Tây đối với các nước phương Đông. Thời cận đại mở ra khi xã hội các nước chuyển sang mô hình tư bản chủ nghĩa, văn học bắt đầu hiện đại hoá theo mô hình văn học phương Tây.

– Văn học trung đại Triều Tiên bắt đầu từ thời Cao Ly/ Koryo cho đến cuối thời Triều Tiên của vương triều Lý (từ TK.10 đến cuối TK.19, trước khi Phong trào Khai hoá nổ ra)

– Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ các triều đại phong kiến độc lập: Ngô, Đinh, Tiền Lê cho đến cuối vương triều Nguyễn (từ TK.10 đến đầu TK.20, trứơc khi Phong trào Duy tân xuất hiện – 1905).

Tiền kỳ trung đại, hai nước Việt Nam và Hàn Quốc đều chịu ảnh hưởng Tam giáo ở những mức độ khác nhau: Nho, Phật, Đạo. Nho chủ yếu ở việc tổ chức chính quyền, Phật ở đời sống tinh thần, tín ngưỡng. Đạo giáo tồn tại dưới những hình thức khác nhau: ở Triều Tiên là Saman giáo và Việt Nam là tín ngưỡng thờ mẫu, đạo thờ tứ phủ và thờ các vị anh hùng.

Tiền kỳ trung đại của Triều Tiên là thời Cao Ly (TK.10 – cuối TK.14). Năm 918 Vương Kiến/ Wang Kon, vị chỉ huy phó trong cuộc nổi dậy cuối thời Silla được các tuỳ tướng tôn lên làm vua, đã mở ra một thời đại mới trên bán đảo Triều Tiên: thời đại thống nhất dưới chế độ phong kiến tập quyền. Vương Kiến đặt tên nước là Cao Ly/ Koryo và dời đô về Kaesong/ Khai Thành. Nhà nươc Cao Ly xây dựng trên cơ sở quyền lợi của giới quý tộc, bao gồm hoàng tộc (họ Vương, quý tộc cũ của Silla), các dòng họ ngoại thích như họ Kim ở An Sơn, họ Lý ở Nhân Xuyên, và nhiều dòng quý tộc nhỏ ở địa phương nữa. Văn hoá Cao Ly nhìn chung có tính chất quý tộc và chịu ảnh hưởng sâu sắc Phật giáo. Vua Thái Tổ/ Taejo cho xây dựng các chùa Pháp vương Tự, Hưng Quốc Tự, Hưng Vưong tự… với quy mô khổng lồ ở Kaesong/ Khai Thành. Việc ấy cho thấy Phật giáo được hâm mộ rất rộng rãi. Phật giáo cũng trở thành thế lực “hộ quốc”, “hộ vương” rất rõ. Phật giáo phát triển mạnh, nhưng nhà chùa lại không kiềm chế được tham vọng của mình, số ruộng đất và của cải nhà chùa càng ngày càng lơn, thậm chí nhà chùa còn phải tổ chức cả những đội “tăng binh” để bảo vệ chùa hay tranh giành quyền lợi với giới quý tộc. Triều Tiên đã áp dụng chế độ khoa cử như đời Đường từ đầu thời Cao Ly (năm 958 thời Quang Tông/ Kwangjong), tuy nhiên phải đến cuối thời Cao Ly (TK.14), Nho giáo mới thực sự trở thành một lực lượng mạnh, lấn át dần Phật giáo.

Tiền kỳ trung đại của Việt Nam là từ Ngô đến cuối vương triều Trần (TK.10- cuối TK.14). Cơ sở xã hội của các triều đại này là tầng lớp quý tộc trang viên. Phật giáo được triều đình ủng hộ, có vai trò hết sức quan trọng đối với triều đình trong giai đoạn đầu. Từ cuối đời Trần trở đi, tầng lớp nho sĩ lớn mạnh dần lên và trở thành trụ cột của triều đình. Vấn đề đặc biệt của Việt Nam là trong thời Tiền kỳ trung đại, nước ta phải liên tiếp đối đầu với các cuộc xâm lược lớn từ phương bắc xuống: nhà Ngô chống quân Nam Hán, nhà Tiền Lê, nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần ba lần chống quân Nguyên.

Về văn học, Văn học tiền kỳ trung đại Triều Tiên thực sự chỉ còn lưu giữ được những tác phẩm từ khoảng TK.12 trở đi. Chủ đề đất nước và thiên nhiên, con người là hai chủ đề chính trong giai đoạn này.

Trước hết phải kể đến bộ ghi chép lịch sử: Tam quốc sử ký (Samguku sagi) của Kim Pu-sik viết về thời Tam quốc của Triều Tiên hồi đầu công nguyên, hoàn thành năm 1145. Tiếp theo là bộ ghi chép dã sử- truyền thuyết lịch sử Tam quốc di sử (Samgoku Yusa) của sư Ilyon, hoàn thành vào cuối TK.13.

Nền văn chương chủ đạo vẫn là văn chương viết bằng Hán văn. Thơ chữ Hán được sử dụng rất phổ biến. Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-po là nhà thơ lớn nhất cuối thời Cao Ly, ông nổi danh với bài trường ca về người anh hùng dựng nước Cao Ly: Đông Minh vương thiên / Tongmyong wang p’yon và nhiều bài thơ nói lên nỗi thống cổ của nhân dân dưới ách thống trị của quân Mông Cổ. Văn xuôi Hán văn phát triển mạnh từ cuối thời Cao Ly với các truyện như: Khổng Phương truyện của Lâm Xuân/ Im Chun, Khúc tiên sinh truyện của Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-bo, Trúc phu nhân truyện của Lý Cốc/ Yi Kok, và các tập tạp văn, nhàn đàm như: Phá nhàn tập của Lý Nhân Lão/ Yi Il-lo, Bạch Vân tiểu thuyết của Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-bo…

Văn học tiền kỳ trung đại của Việt Nam có hai bộ phận: một là văn học khẳng định nền độc lập dân tộc của các nhà sư và quý tộc Lý-Trần, một nữa là văn học Thiền tông. Đến cuối đời Trần có thêm mảng thơ văn của các nho sĩ “ưu thời mẫn thế”. Ở bộ phận thứ nhất là các bài thơ: Thần (khuyết danh, Lý Thường Kiệt nhuận sắc), Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, thơ Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông…Văn học Thiền tông đạt được thành tựu nổi bật với thơ của các thiền sư thời Lý- Trần: Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác, Quảng Nghiêm, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Tung, Huyền Quang… Văn xuôi Hán văn có: Thiền uyển tập anh, tập truyện về các nhà sư theo từng dòng truyền thừa, có tính chất “truyền đăng” rất rõ nét; Việt điện u linh, sách ghi về sự tích các thần nổi tiếng của nước ta, có thể coi như một loại sưu tập “thần phả, thần tích” của đạo thờ thần của người Việt; Lĩnh Nam chích quái, sưu tập về các chuyện thần quái của nước ta, tương tự như sách Sưu thần ký của Trung Quốc, Kim tích vật ngữ của Nhật Bản.

Cuối đời Trần có sự xuất hiện của các nho sĩ: Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh…Thơ văn của họ đem đến một tính chất khác hẳn trước, gần với tính chất Trung kỳ trung đại hơn là Tiền kỳ trung đại. Chúng ta sẽ nhắc lại họ ở giai đoạn văn học sau.

III. VĂN HỌC TRIỀU TIÊN, VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI

Nhà Tống tồn tại hơn 300 năm từ năm 960 đến 1278. Thành tựu to lớn nhất về học thuật của nó là sự ra đời của phái Đạo học, còn gọi là Lý học với Chu Đôn Di, Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di. Tống Nho công khai chống đối các loại tư tưởng học thuật khác với chủ trương “Độc tôn Nho học, bài trừ dị học”. Khuynh hướng đề cao “Đạo thống” (dòng chính thống của Đạo), bài trừ Phật Lão đã có từ cuối đời Đường, nhưng phải đến các học giả đời Tống mới thật mạnh mẽ. Tống học đạt đến giai đoạn đại hưng thịnh vào cuối thế kỷ 12. Giữa thế kỷ 14, nhà Minh lên thay nhà Nguyên, một vương triều ngoại tộc, đã mở ra thời đại phục hưng những giá trị văn hoá Hán tộc, đồng thời cũng tạo điều kiện cho Nho giáo phát triển mạnh mẽ. Điều ấy đã tác động đến Việt Nam và Triều Tiên, góp phần đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo ở các nước này. Giai tầng sĩ phu cuối thời Cao Ly (Triều Tiên) và cuối thời Trần (Việt Nam) đã khẳng định được vị trí của mình nhờ năng lực của họ tỏ ra hơn hẳn giới quý tộc già cỗi đang sa vào hưởng lạc, và cả tầng lớp tăng lữ suy thoái đang vui hưởng những quyền lợi thế tục.

Ở Triều Tiên, từ sự bất lực của triều đình Cao Ly trong việc giải quyết những vấn đề nội trị, Lý Thành Quế/ Yi Song-gye nổi lên như một thế lực mới, và ông ta đã thành công trong một cuộc chính biến để nắm lấy quyền lực tối cao của đất nước. Năm 1392 Lý Thành Quế chính thức lên ngôi, đổi tên triều đại của mình là Choson/ Triều Tiên theo tên cổ và dời đô về Hanyang/ Hán Dương (tức Seoul ngày nay). Trụ cột của triều Lý là tầng lớp “lưỡng ban”, tức hai ban văn võ, là những dòng họ công thần đối với triều đình. Tuy nhiên trong đó văn được trọng hơn võ, và văn thì chủ yếu là những nho sĩ cấp cao theo Tân nho giáo của Chu – Trình, người ta gọi là “Sĩ đại phu/ Sadaebu”. Người đầu tiên đưa Tống nho vào Triều Tiên là An Dụ/ An Yu (1243-1306), kế đó là Bạch Di Chính/ Paek I-jong (1275-1325), Lý Tề Hiền/ Yi Che-hyon (1287-1367), Trịnh Đạo Truyền/ Chong To-jong (1337-1392)… Những môn đệ Tống nho của Triều Tiên đã làm dấy lên làn sóng bài xích Phật giáo khá mạnh mẽ. Những nhà tư tưởng danh tiếng nhất của Triều Tiên là: Lý Hoảng/ Yo Hwang (tức Lý Thoái Khê/ Yi Toegye, 1501-1570) được coi là Chu Hy của Triều Tiên và Lý Nhĩ/ Yi I ( tức Lý Lật Cốc/ Yi Yulgok, 1536-1584), triết gia đứng đầu trường phái “trọng Khí”. Cùng với sự phát triển của giáo dục và chế độ khoa cử, tầng lớp nho sĩ càng trở nên đông đảo với sự bổ sung của giới “Sĩ lâm/ Sarim ” xuất thân từ làng quê.

Ở Việt Nam tình hình cũng diễn ra tương tự. Cuối đời Trần, từ khoảng giữa TK.14 trở đi, tầng lớp nho sĩ đã trưởng thành nhanh chóng, Nho giáo của Chu văn An và các học trò trung thành của ông là một thứ nho giáo hoàn toàn khác với Nho giáo trong Tam giáo trước đó. Nho giáo trong Tam giáo là một học thuật tự do, tương tự như Nho giáo đời Đường, còn Nho giáo của Chu Văn An là Tân Nho giáo, tức Tống nho. Với bộ sách Tứ thư thuyết ước của mình, Chu Văn An thực sự là người đầu tiên đưa cái học của Chu Hy, tức Tống Nho vào Việt Nam. Tinh thần Tống Nho ấy còn được thể hiện ở thái độ cứng cỏi “Văn Trinh ngạnh trực” dâng Thất trảm sớ xin chém bảy kẻ lộng thần, và ở trong những lời lẽ cứng rắn phê phán giới tăng lữ của các học trò của ông: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát… Như mọi người đều biết việc đề cao Tứ thư là công của Chu Hy, ông ta đã bỏ ra hơn 20 năm để hoàn thành bộ sách chú giải Tứ thư tập chú. Đồng thời Tống Nho cũng chủ trương Tôn sùng Nho học, bài trừ dị học. Kẻ sĩ Tống Nho chú trọng vào phẩm chất, bản lĩnh cá nhân, không khuất phục trước cường quyền. Nho học phát triển mạnh mẽ vào thời Lê sơ và rực rỡ nhất vào thời Lê Thánh Tông. Những kẻ sĩ đại phu làm vang danh cho nền Nho học Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan.

Về văn học, thời Trung kỳ trung đại trong văn học Triều Tiên có thể nói là thời của tầng lớp Sĩ đại phu/ Sadaebu. Tư tưởng Tống nho được đề cao trong sáng tác của họ. Hàng loạt các bộ sử được viết ra để ca tụng triều đại Lý và củng cố lòng trung thành của sĩ dân đối với triều đình: Thái Tổ thực lục, Triều Tiên vương triều thực lục, Xuân thu quán, Cao Ly sử… Loại ca nhạc gắn với thơ gọi là “Nhạc chương” (tương tự như thể loại từ của Trung Quốc) thể hiện rõ tính chất tụng ca của thể loại này. Các tác phẩm nổi bật nhất là: Tân đô ca/ Sindo ka của Trịnh Đạo Truyền/ Chong To-jon, Long phi ngự thiên ca/ Yongbi ochon ka của Trịnh Lân Chỉ/ Chong In-ji v.v. Tuyển tập vĩ đại nhất về thơ văn chữ Hán của người Triều Tiên là bộ Đông văn tuyển / Dongmun son do Từ Cư Chính/ So Ko-jong biên tập hoàn thành vào năm 1478.

Văn tạp ký, nhàn đàm của các nhà nho phát triển mạnh, đáng chú ý là các tác phẩm: Bút uyển tạp ký của Từ Cư Chính/ So Ko-jong, Dung Trai tùng thoại của Thành Hiện/ Song Hyon, Bại quan tạp ký của Ngư Thúc Quyền/ O Suk-kwon. Tập truyện truyền kỳ Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh được truyền đến Triều Tiên từ rất sớm, từ đó Kim Thời Tập/ Kim Si-sup đã phóng tác ra thành tập truyện truyền kỳ Triều Tiên: Kim Ngao tân thoại/ Kum o sinhwa. Tác phẩm này cũng được coi là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của Nhật Bản.

Sự kiện văn hoá quan trọng vào đầu triều Lý là việc vua Lý Thế Tông/ Yi Se-jong và các cộng sự của ông đã phát minh ra hệ thống chữ viết Hàn ngữ/ Hangul (gọi đầy đủ là “Huấn dân chính âm/ Hunmin chongum, ban hành năm 1446) để ghi âm Triều Tiên. Hệ thống chữ viết Hangul không được tầng lớp “lưỡng ban” là các sĩ đại phu và võ quan cao cấp ủng hộ, nhưng lại rất được dân chúng, nhất là phụ nữ quý tộc, con gái các gia đình “lưỡng ban” yêu thích, dùng để viết thư từ và sáng tác thơ ca, tạo tiền đề cho thời kỳ khai hoa của văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc.

Hai thể thơ dân tộc là Sijo/ Thời điệu và Kasa/ Ca từ đều xuất hiện vào cuối giai đoạn Cao Ly/ Koryo (Tiền kỳ trung đại), nhưng phải đến giai đoạn Triều Tiên/ Choson (Trung kỳ trung đại) mới thực sự phát triển. Kasa/ ca từ có thể coi như một loại từ khúc của người Triều Tiên. Nhà thơ kasa nổi danh nhất giai đoạn này là Trịnh Triệt/ Chong Chol (1536-1593), tác giả của những bài kasa bất hủ: Quan Đông biệt khúc, Tư mỹ nhân khúc, Tục mỹ nhân khúc… Thể thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn dân tộc Triều Tiên là sijo/ thời điệu, với tên tuổi của các nhà thơ: Lý Hoảng/ Yo Hwang (1501-1570), Lý Nhĩ/ Yi I (1536-1584), Phác Nhân Lão/ Pak Il-lo (1561-1643), Thân Khâm/ Sin Hum (1566-1628), và nhất là nữ sĩ Hoàng Chân Y/ Hwang Chin Y(1506-1544) và Doãn Thiện Đạo/ Yun Son-do (1587-1671), hai thi sĩ đã đưa thể thơ này lên đến đỉnh cao. Kasa và sijo giai đoạn này thường đề cao lòng trung quân, có ý khuyên răn đạo đức, hay thể hiện nỗi thống khổ của nhân dân trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mãn Châu và Nhật Bản. Bên cạnh đó là những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp bất tuyệt của thiên nhiên và khát khao muốn tìm nơi an trú trong ấy.

Văn học trung kỳ trung đại ở Việt Nam là giai đoạn văn học của các nhà nho. Có thể gọi các nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, các nhà thơ trong Tao đàn thời Hồng Đức, rồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan…là các “sĩ đại phu” tương tự như sĩ đại phu thuộc tầng lớp “lưỡng ban” dưới thời Choson của Hàn Quốc. Tính chất tụng ca là tính chất nổi bật của văn học TK.15 với vai trò không thể thiếu được của thể phú, ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, ca ngợi dân tộc, ca ngợi hoàng đế anh minh. Đó là các bài: Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi; Chí Linh sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Tẩy binh vũ phú, Nghĩa kỳ phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Bút trận phú, Huân phong cầm phú, Xuân đài phú…của Nguyễn Mộng Tuân; Chí Linh sơn phú, Xương giang phú, Quảng cư phú… của Lý Tử Tấn, và cả bài “đại phú” Lam Sơn Lương Thuỷ phú của Hoàng đế Lê Thánh Tông.

Văn chương ca tụng thú điền viên, ẩn dật thì phải nói đến thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh khiêm, phú của Nguyễn Công Hãng (Tịch cư ninh thể phú)… Thể thơ Hàn luật (hay còn gọi là Thất ngôn xen lục ngôn) của kẻ sĩ quân tử là thể loại phát triển lên đến đỉnh cao trong giai đoạn này. Chữ Nôm được dùng trong sáng tác văn học với những tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai thể thơ dân tộc khác hình thành vào giai đoạn sau của Trung kỳ trung đại cũng đã có thành quả với Thiên Nam ngữ lục bằng thể lục bát và Thiên Nam minh giám bằng thể song thất lục bát.

Truyện truyền kỳ được mở đầu bằng tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, mà chúng ta còn thấy rất giống với những người anh em của nó ở Trung Quốc và Triều Tiên: Tiễn đăng tân thoại và Kim Ngao tân thoại. Sau khi Truyền kỳ mạn lục ra đời được ít lâu, Nguyễn Thế Nghi đã dịch tập truyện này ra tiếng Việt với tên gọi Tân biên Truyền kỳ mạn lục. Triều Tiên thường có tiểu thuyết bằng Hán văn, sau đó lại dịch ra Hàn ngữ, và những tiểu thuyết đều được coi là tiếng thuyết bằng tiếng Hàn. Với cách nhìn ấy, có thể coi Tân biên Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi là tiểu thuyết tiếng Việt đầu tiên của nước ta.

Nói chung so với Nhật Bản và Triều Tiên-Hàn Quốc, tiểu thuyết Việt Nam ra đời muộn hơn và số lượng cũng ít hơn nhiều.

IV. VĂN HỌC TRIỀU TIÊN, VIỆT NAM HẬU KỲ TRUNG ĐẠI

Hậu kỳ trung đại ở Triều Tiên-Hàn Quốc thuộc về nửa cuối vương triều Lý (TK.18 – cuối TK.19), Việt Nam là từ thời Lê mạt đến khi phong trào Cần vương bị dập tắt (TK.18-cuối TK.19).

Từ thời Minh, Thanh trở đi, xã hội và văn hoá Trung Quốc có những thay đổi rõ nét mang tính chất Hậu kỳ trung đại với vai trò ngày càng quan trọng của tầng lớp thị dân phong kiến. Những thay đổi chuẩn bị bước sang thời cận đại ấy có tác động rất mạnh đến các nước trong khu vực, đó là:

– Khuynh hướng tài tử trong văn học Minh Thanh
– Khảo chứng học đời Thanh
– Khuynh hướng bảo thủ trong học thuật đời Thanh
– Dương học Trung Quốc (ảnh hưởng rất lớn đến phái Dương học Triều Tiên, “Tây nho” Nhật Bản, và Lê Quý Đôn của Việt Nam)
– Tư tưởng khai sáng của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (tác động mạnh mẽ đến các sĩ phu trong phong trào khai hoá Triều Tiên, phong trào duy tân Việt Nam) v.v.

Hậu kỳ trung đại ở Triều Tiên, tầng lớp “Lưỡng ban” với sĩ đại phu và các võ quan cao cấp dần dần mất vai trò lịch sử, tầng lớp sĩ lâm chủ yếu là những nho sĩ bình dân càng ngày càng đông đảo và có vai trò ngày càng quan trọng hơn trong đời sống chính trị và văn hoá Triều Tiên. Xã hội ổn định lâu dài dẫn đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Tầng lớp “cống nhân”, những người thu mua hàng hoá của các địa phương để cung cấp cho triều đình, dần dần phát triển thành những thương nhân giàu có kinh doanh từng mặt hàng chuyên biệt. Các hoạt động thương mại của tư thương buôn bán gạo, muối, cá, tơ lụa, vải bông, nhân sâm…diễn ra náo nhiệt ở các thành thị như Seoul, Kaesong/ Khai Thành. Theo chân các đoàn buôn chuyến, văn hoá đô thị Trung Quốc thời Minh Thanh cũng truyền vào Triều Tiên.

Ở Việt Nam, quá trình suy thoái của chế độ phong kiến Việt Nam có thể lấy dấu mốc từ thế kỷ 16, nhưng tình hình cũng chưa thật trầm trọng. Đến thế kỷ 18 trở đi không chỉ đánh dấu sự suy thoái, mà chính là sự suy sụp của chế độ phong kiến. Sự suy sụp ấy biểu hiện ở sự thoái hóa năng lực và đạo đức của chính quyền trung ương, sự cùng khổ của dân chúng và cuộc đấu tranh của họ thông qua các cuộc khởi nghĩa nông dân. Điều đáng nói hơn nữa là sự phát triển của các đô thị như Thăng Long, Phố Hiến, Nghệ An, Hội An, Gia Định, Hà Tiên… đã dẫn đến sự hình thành ngày càng đông đảo tầng lớp thị dân. Sự tích lũy lâu dài những yếu tố tiêu cực đối với chế độ phong kiến Việt Nam từ cuối thế kỷ 15 đã dẫn đến sự thay đổi sâu sắc vào đầu thế kỷ 18, mà sự thành lập vương triều Nguyễn tập quyền cao độ sau đó một thế kỷ cũng không đủ để cứu nguy cho nó được lâu dài. Bên cạnh đó, văn hoá Hậu kỳ trung đại của các đô thị Trung Quốc theo thuyền buôn và các đoàn đi sứ đã đẩy nhanh sự hình thành văn hoá thị dân ở Việt Nam.

Về văn học, văn học Triều Tiên hậu kỳ trung đại diễn ra khá sôi nổi.

Các thể thơ sijo/ thời điệu và kasa/ ca từ thay đổi theo hướng tăng cường tính hiện thực, thể hiện những rung cảm chân thực trong lòng người, nhất là về tình yêu, và cả những khát khao tính dục. Các nhà thơ tiêu biểu là: Kim Thiên Trạch/ Kim Chon-taek, Kim Thọ Trường/ Kim Su-jang và cả một số xuất thân từ ca kỹ. Thành tựu tiêu biểu cho thơ sijo cách tân này là những bộ thi tuyển đồ sộ: Thanh khâu vĩnh ngôn do Kim Thiên Trạch/ Kim Chon-taek biên soạn hoàn thành năm 1728, Hải Đông ca dao do Kim Thọ Trường/ Kim Su-jang biên soạn hoàn thành năm 1763, Ca khúc nguyên lưu do Phác Hiếu Khoan/ Pak Hyo-gwan và An Mai Anh/ An Ming-yong biên soạn, hoàn thành năm 1876.

Các tuyển tập văn học dân gian tiêu biểu nhất là Chiêu đại phong dao của Cao Thời Ngạn/ Ko Sin-on là bằng chứng rõ ràng nhất cho sự lên ngôi của người bình dân trong văn học.

Tiểu thuyết chữ Hán Hậu kỳ trung đại có những thay đổi quan trọng. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng thực học (sirhak), tiểu thuyết chữ Hán tăng cường tính hiện thực, viết bằng một loại Hán văn giản dị, hướng chủ đề vào việc phê phán mạnh mẽ tính chất ăn bám của tầng lớp “lưỡng ban”, tiêu biểu là các truyện Hứa Sinh truyện, Hổ Sất Lưỡng ban truyện, Mẫn Ông truyện của Phác Chi Nguyên/ Pak Chi-won.

Tiểu thuyết viết bằng chữ Hangul xuất hiện từ cuối thời Trung kỳ trung đại, tác phẩm đầu tiên có lẽ là Hồng Cát Đồng truyện/ Hong Kiltong chon của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618), tác phẩm gây được tiếng vang lớn là tiểu thuyết thần tiên Cửu vân mộng của Kim Vạn Trùng/ Kim Man-jung (1637-1692). Đến Hậu kỳ trung đại, tiểu thuyết bằng tiếng Hàn mới thực sự nở rộ, với những: Tường Hoa Hồng Liên truyện, Thẩm Thanh truyện, Ngọc lâu mộng, Thục Hương truyện …và được yêu thích nhất là tiểu thuyết kỹ nữ Xuân Hương truyện. Các truyện trên đều có chủ đề phê phán xã hội, phê phán sự kỳ thị giàu nghèo, sang hèn, ca ngợi tình yêu tự do.

Hậu kỳ trung đại của Triều Tiên chứng kiến sự lên ngôi của một thể loại văn học – sân khấu mới có tính chất đại chúng rõ nét là thể pansori, một loại truyện kể xen kẽ với thơ được ngâm kể kèm theo điệu bộ. Pansori có nguồn gốc lâu đời, nhưng thịnh hành vào nửa đầu TK.19. Hiện có 12 bản pansori, là những tác phẩm phỏng theo tiểu thuyết tiếng Hàn, truyện cổ dân gian. Người có công đầu đối với thể loại này là Thân Thái Hạo/ Sin Chae-hyo (1812-1884). Các bản pansori thường phê phán những bất công đương thời, châm biếm tầng lớp lưỡng ban, ngợi ca cuộc đấu tranh của những người nghèo khổ trong xã hội cho tự do, tình yêu và hạnh phúc của mình. Tiêu biểu là các tác phẩm: Truyện nàng Xuân Hương (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên), Truyện nàng Shim Cheong, Truyện Heung Boo.v.v.

Trong những thành tựu văn học Hậu kỳ trung đại Triều Tiên có thể kể thêm những công trình học thuật của các nhà thực học, đó là những bộ sách đồ sộ có tính bách khoa thư như: Chi phong loại thuyết của Lý Tối Quang/ Yi Su-gwang, Tinh hồ tạp thuyết của Lý Dực/ Yi Ik, và nhất là Đại điển hội thông của Triệu Đẩu Thuần/ Cho Tu-sun hoàn thành năm 1865, Tăng bổ văn hiến bị khảo của một nhóm học giả do Phác Dung Đại/ Pak Yong-dai đứng đầu hoàn thành vào năm 1908. Có thể thấy ở những công trình ấy ảnh hưởng của ngành Khảo chứng học đời Thanh.

Giai đoạn hậu kỳ trung đại trong văn học Việt Nam được đánh dấu bằng truyện nôm Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào. Truyện Song Tinh là truyện thơ Nôm (lục bát trường thiên) có tên tác giả đầu tiên của văn học nước ta. Tác phẩm này mở đầu cho giai đoạn cực thịnh của văn học tiếng Việt thời kỳ Trung đại. Không phải ngẫu nhiên mà Truyện Song Tinh xuất hiện vào đầu thế kỷ 18. Tính chất tiểu thuyết (truyện thơ) và phổ cập rộng rãi (bình dân, thị dân) bằng ngôn ngữ dân tộc là những đặc trưng của văn học Hậu kỳ trung đại.

Hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát đều đạt đến trình độ mẫu mực. Song thất lục bát có các khúc ngâm nổi tiếng: Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm-Phan Huy Ích, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du, Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận, Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ… Thành tựu của lục bát chủ yếu là các truyện thơ nôm. Trước hết là truyện thơ nôm bác học chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học đô thị Hậu kỳ trung đại của Trung Quốc: truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, Truyện Nhị độ mai, Phan Trần, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Ngọc Kiều Lê của Lý Văn Phức, Truyện Tây Sương của Nguyễn Lê Quang và nhất là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bên cạnh đó là các truyện thơ nôm bình dân, thường là của các tác giả khuyết danh: Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Trinh thử… Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mặc dù là của tác giả có danh, nhưng về mặt thi pháp, gần với truyện nôm bình dân hơn là truyện nôm bác học- tài tử giai nhân.

Thơ Đường luật bằng tiếng Việt phát triển lên đến đỉnh cao với Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quán, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…Hậu kỳ trung đại chứng kiến sự lên ngôi của một thể thơ mới gắn liền với sinh hoạt đô thị: hát nói, với các nhà thơ tài tử: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh…

Phú và văn tế: thành tựu mới về thể loại này chủ yếu là những tác phẩm bằng chữ nôm. Tính chất đời thường, tính trào tiếu là những nét mới có tính hậu kỳ trung đại. Có thể kể: Ngã ba Hạc phú của Nguyễn Bá Lân, Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ, Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát, rồi Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn khóc chị của Nguyễn Hữu Chỉnh…

Tiểu thuyết chữ Hán đứng đầu là bộ Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái. Thể ký có Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác. Bên cạnh đó là các tập ghi chép bằng Hán văn rất có giá trị như: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Trần Danh An…

Về học thuật, có thể kể ra đây những công trình đồ sộ có tính bách khoa thư của các học giả trứ danh: Vân đài loại ngữ, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, các công trình được biên soạn theo chủ trương của triều đình: Quốc triều thi lục, Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí…

Hậu kỳ trung đại khép lại bằng hai nhà nho thành thị là Tú Xương và Chu Mạnh Trinh, nhường chỗ cho nền văn học mới viết bằng chữ quốc ngữ khởi đầu bằng các trí thức Tây học ở Sài Gòn, rồi các sĩ phu duy tân khắp 3 miền Nam, Trung, Bắc.

V. NHẬN XÉT

1. Do điều kiện lịch sử xã hội tương đồng nên văn học cổ điển Việt Nam và Hàn Quốc có những bước đi chung với văn học khu vực Đông Á. Từ sau khi hình thành khu vực văn hoá Đông Á vào những năm đầu công nguyên, văn học Việt Nam cũng như Triều Tiên – Hàn Quốc khởi đầu bằng giai đoạn văn học gắn liền với Phật giáo. Những trước tác Phật giáo là những tác phẩm văn học đầu tiên của mỗi nước. Phật giáo nằm trong cấu trúc tư tưởng chung tam giáo: Nho, Phật, Đạo. Đạo giáo ở Việt Nam và Triều Tiên thể hiện khá rõ qua tư tưởng Lão Trang. Văn học Việt Nam, Triều Tiên ở mức độ khác nhau đều có dòng văn học yêu nước, khẳng định nền độc lập và văn hiến riêng của dân tộc mình. Tư tưởng yêu nước bắt rễ sâu xa và được nuôi dưỡng không ngừng bằng đạo thờ thần của mỗi nước: Đạo thờ Thần có tính chất saman giáo của Triều Tiên, Đạo thờ Thần gắn liền với tín ngưỡng thờ mẫu, đạo thờ tứ phủ, thờ những anh hùng có công với nước ở Việt Nam. Cùng với sự du nhập của những tư tưởng ngoại lai mà tư tưởng yêu nước của mỗi nước mang màu sắc khác nhau: Phật giáo, rồi Nho giáo. Dẫu có những màu sắc ấy, nhưng tư tưởng yêu nước luôn được nuôi dưỡng bởi tình cảm thiêng liêng gắn liền với đạo thờ Thần qua các khái niệm: hồn thiêng sông núi, hồn nước, anh linh tổ tiên, tiên hiền hậu hiền trong làng… So với các nước, dòng văn học yêu nước Việt Nam ra đời khá sớm, tạo thành một dòng mạnh mẽ, khá liên tục, đến tận thời cận hiện đại. Tư tưởng yêu nước trong văn học Việt Nam thường gắn với tư tưởng hoà bình và nhân đạo, ít có tính dân tộc cực đoan, hẹp hòi.

Do sự lớn mạnh của tầng lớp nho sĩ trong nước và do những ảnh hưởng trào lưu khôi phục đạo thống, văn thống dân tộc Hán vào đời Minh mà từ TK.14 trở đi Việt Nam và Triều Tiên đều chuyển dần sang mô hình Nho giáo – Tống Nho. Từ khoảng TK.18 hai nước đều bước vào giai đoạn Hậu kỳ trung đại với thiết chế Nho giáo ngày càng nghiêm khắc hơn, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và học thuật phương Tây ngày càng mạnh cùng với sự lớn mạnh không ngừng của các đô thị phong kiến. Thời trung đại của hai nước đều kết thúc trước cuộc xâm lăng của phương Tây diễn ra vào nửa cuối TK.19.

2. Tương ứng với quá trình lịch sử ấy, tác giả chính đồng thời cũng là nhân vật trữ tình trong thơ thay đổi từ quý tộc, tăng lữ (Tiền kỳ trung đại) sang sĩ đại phu (Trung kỳ trung đại ở Triều Tiên, Việt Nam), rồi đến nhà nho cấp trung, cấp thấp (ở Việt Nam là nhà nho tài tử và nhà nho bình dân; ở Triều Tiên là “sĩ lâm”, “trung nhân) và nhất là thị dân (Hậu kỳ trung đại).

3. Trong văn học Việt Nam và Triều Tiên – Hàn Quốc đều có hiện tượng song tồn hai bộ phận văn học: bộ phận viết bằng Hán văn và bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Quá trình phát triển của nền văn học mỗi dân tộc đồng thời cũng là quá trình xây dựng nền văn học viết bằng tiếng nói dân tộc. Ở Triều Tiên bắt đầu từ những bài hyangga trước TK.10, ở Việt Nam là thơ phú nôm TK.13. Ngôn ngữ dân tộc được hình thành từ sự khẳng định vai trò, giá trị của văn học dân gian.

4. Về thể loại, thể loại phát triển mạnh nhất trong văn học Triều Tiên – Hàn Quốc, Việt Nam thời trung đại là thơ, còn văn xuôi thì phát triển muộn hơn. Trong các nước thì Việt Nam là nước phát triển mạnh nhất về thơ, xứng đáng nhất với tên gọi “Thi quốc” (đất nước của thơ ca). Việt Nam là nước có hầu hết các thể loại thơ chữ Hán, đồng thời nhiều thể thơ chữ Hán được Việt hoá, sử dụng trong việc làm thơ tiếng Việt, nổi bật nhất là thơ Đường luật. Phú và văn tế là thể loại rất gần với thơ cũng được sáng tác bằng tiếng Việt. Những hiện tượng như trên không hề có trong văn học Triều Tiên. Các thể thơ tiếng Việt rất phong phú: thơ Hàn luật (thất ngôn xen lục ngôn), thơ Đường luật, từ khúc, lục bát, song thất lục bát, hát nói, nhiều hơn các thể thơ Nhật Bản, Triều Tiên.

Văn xuôi hai nước Triều Tiên – Hàn Quốc và Việt Nam đều bắt đầu bằng các tác phẩm viết bằng Hán văn, rồi chuyển dần từ các thể văn học chức năng sang các thể văn nghệ thuật. Trong giai đoạn đầu, tính chất văn sử triết bất phân còn rất rõ nét. Những tác phẩm đầu tiên của cả hai nước đều là những trước tác Phật giáo, văn chương và tôn giáo chưa phân biệt rõ. Sau đó có các bộ sử – truyện, như Tam quốc sử ký, Tam quốc di sử của Triều Tiên, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái của Việt Nam thì văn và sử cũng chưa tách bạch.

Văn xuôi bằng Hán văn của Việt Nam và Triều Tiên ra đời khá muộn so với các nước trong khu vực Đông Á – khoảng cuối thời Tiền kỳ trung, tức là khoảng TK.14-15. Tiểu thuyết bằng tiếng dân tộc của Việt Nam và Triều Tiên còn muộn hơn nữa, khoảng TK.16-17. Có thể coi bản nôm Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi xuất hiện vào TK.16 là tiểu thuyết bằng tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam. Còn Triều Tiên, người ta vẫn coi Hồng Cát Đồng truyện/ Hong Kiltong chon của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618) là tiểu thuyết đầu tiên bằng tiếng Hàn. Thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam thời trung đại là thơ, truyện thơ, trong khi đó ở Triều Tiên chủ yếu lại là văn xuôi, tiểu thuyết.

Mặc cho có nhiều điểm tương dị, nhìn một cách đại thể nền văn học cổ điển Việt Nam và Hàn Quốc giống nhau một cách kỳ lạ: từ các giai đoạn phát triển (giống đến từng thế kỷ một) đến tính chất, thể loại…, giống hơn Việt Nam, Hàn Quốc với Trung Quốc, Nhật Bản hay một quốc gia nào khác trên thế giới. Đặt văn học Việt Nam và Hàn Quốc cạnh nhau trong khu vực văn hóa Đông Á có thể mở ra một chân trời rộng lớn cho ngành nghiên cứu văn học so sánh với các loại đề tài: thơ chữ Hán Việt Nam với thơ chữ Hán Triều Tiên – Hàn Quốc; các thể thơ dân tộc Việt Nam (lục bát, song thất lục bát…) với thơ dân tộc Triều Tiên – Hàn Quốc (kasa, sijo…), truyện thơ nôm với thể loại pansori; truyện truyền kỳ ở Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc trong mối liên hệ với Trung Quốc, Nhật Bản; truyện thơ nôm Việt Nam với tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc, Triều Tiên – Hàn Quốc; rồi những vấn đề về quan niệm văn học, tư duy nghệ thuật v.v. Những vấn đề này đòi hỏi một một lực lượng đông đảo với cố gắng rất lớn của những nhà nghiên cứu ngữ văn Việt – Hàn.

TP.HCM, tháng 11 / 2013

Đ.L.G

—————————-

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Asia Center Lecture Series: Thưởng thức văn học Hàn Quốc, Japan Foundation, Tokyo, 1996 (tiếng Nhật)
2. Claudine Salmon biên soạn: Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á, Trần Hải Yến dịch, NXB.KHXH, 2004
3. Ki-baik Lee: Korea xưa và nay- Lịch sử Hàn Quốc tân biên, Lê Anh Minh dịch, NXB.TP.HCM, 2002
4. Hầu Ngoại Lư: Trung Quốc tư tưởng sử cương, Thượng Hải thư điếm xuất bản xã, tái bản 2004 (tiếng Hoa)
5. Trần Nghĩa: Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, NXB.Thế giới, Hà Nội, 2000
6. Quách Thiệu Ngu: Trung Quốc văn học phê bình sử, Hoằng Trí thư điếm, Hongkong xuất bản (tiếng Hoa)
7. Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1: Từ khởi nguyên đến Lý Nam Đế, NXB Thuận Hóa, 1999
8. http://www.quangduc.com/coban

—————————-

CHÚ THÍCH

(1) Người ta dùng khái niệm “Triều Tiên/ Choson cổ đại” để phân biệt với nhà nước Triều Tiên ra đời vào thế kỷ 15
(2) Các tư liệu về Phật giáo Trung Hoa trong bài đều dựa theo tư liệu trên trang web Quảng Đức, địa chỉ: http://www.quangduc.com/coban/25phpt05-2.html
(3) Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1: Từ khởi nguyên đến Lý Nam Đế, NXB Thuận Hóa, 1999, tr.24
(4) Sáu vị tổ thiền tông Trung Hoa: 1- Bồ đề đạt Ma, 2-Huệ Khả, 3-Tăng Xán, 4-Đạo Tín, 5-Hoằng Nhẫn, 6-Huệ Năng. Việc Tăng Xán khuyên Tì-ni-đa-lưu-chi đi An Nam còn tranh luận trong giới nghiên cứu
(5) Theo Trần Nghĩa: Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, NXB.Thế giới, Hà Nội, 2000; Lê Mạnh Thát, sđd, tr.602. Trong sách này, Lê Mạnh Thát có đưa ra quan niệm: tác phẩm văn học đầu tiên của Việt Nam là bài Việt ca (xuất hiện khoảng TK.5-4 tr.CN) ghi trong sách Thuyết uyển (hoàn thành TK.1 tr.CN). Chúng tôi thấy chưa có cơ sở để khẳng định điều này.

Theo HANQUOCHOC.EDU.VN

Tags: , ,