Bức tranh toàn cảnh về đường Trường Sơn – con đường huyền thoại của dân tộc

Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh là một hệ thống giao thông, liên lạc, đường ống xăng dầu trải hàng ngàn km từ Nghệ An đến Bình Phước. Di tích lịch sử Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh bao gồm 37 điểm tiêu biểu nằm trên địa bàn 11 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Bình Phước.

Bức tranh toàn cảnh về đường Trường Sơn – con đường huyền thoại của dân tộc

Nguồn: Hồ sơ xếp hạng di tích – Tư liệu Cục Di sản văn hóa.

Khái lược về lịch sử Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh

Tháng 1 năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa II) mở rộng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, họp tại Hà Nội, xác định: “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thiết lập chính quyền cách mạng”.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tổng Quân ủy Trung ương, cùng với việc đẩy mạnh xây dựng quân đội cách mạng chính quy, từng bước hiện đại trên miền Bắc, Bác Hồ, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở tuyến đường chiến lược vận tải quân sự từ miền Bắc xuyên qua dãy núi Trường Sơn trùng điệp và hùng vĩ để chi viện binh lực cho cách mạng miền Nam.

Ngày 5/5/1959, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm Uỷ ban thống nhất Trung ương, thừa lệnh Bộ Chính Trị trực tiếp giao cho Thượng tá Võ Bẩm, nguyên Cục trưởng Cục Nông trường tổ chức “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” làm nhiệm vụ mở đường, vận chuyển hàng quân sự vào chiến trường, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ, chuyển công văn, tài liệu từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

Ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân uỷ triệu tập Ban cán sự, chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn mở đường Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam, vận chuyển gấp một số hàng quân sự theo yêu cầu của Liên khu 5, tổ chức đảm bảo cho 500 cán bộ hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực. Với chiến lược bí mật, chủ động tiến công, Bộ Chính trị, Tổng Quân uỷ yêu cầu Đoàn tuyệt đối giữ bí mật, không để đối phương biết được sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, dù chỉ là một hoạt động nhỏ lẻ, đây là vấn đề có tính nguyên tắc.

Ra đời tháng 5 năm 1959, Đoàn được mang phiên hiệu Đoàn 559; ngày 19/5/1959 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày Bộ Chính trị và Thường trực Tổng Quân uỷ giao nhiệm vụ mở đường chiến lược Trường Sơn, được xác định là ngày truyền thống của Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh.

Mùa hạ năm 1959, từ Khe Hó, phía Tây Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Tiểu đoàn 301 – đơn vị đầu tiên của Bộ đội Trường Sơn, bí mật xuất quân, mở đường giao liên vận tải. “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” là kỷ luật nghiêm ngặt của những đơn vị vận tải ngày đầu thành lập. Tiểu đoàn đã vượt đường số 9 trong điều kiện địch ngày đêm kiểm soát gắt gao để ngày 13/8/1959, giao chuyến hàng đầu tiên cho Liên khu 5.

Trong khi tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc dọc theo dãy Trường Sơn tiến dần vào phía Nam, thì ở các tỉnh Trung Bộ, như Hà Tĩnh, Quảng Trị…, các con đường giao liên được mở tiếp vào các khu căn cứ; từ miền Đông Nam Bộ, các đội vũ trang tuyên truyền cũng tiến hành soi đường ra Bắc.

Thiết lập được tuyến hành lang giao liên từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa căn cứ địa miền Bắc với miền Nam.

Tròn 18 tháng, Đoàn vận tải quân sự chiến lược 559 đã giành được những thắng lợi bước đầu quan trọng trên con đường chiến lược Bắc – Nam. Từ những bước lặng lẽ soi lối mở đường đầu tiên, những người lính Trường Sơn đã thiết lập được tuyến hành lang giao liên vận tải quân sự dài hàng trăm ki-lô-mét trong điều kiện địa hình bị chia cắt và kẻ thù ngăn chặn quyết liệt. Theo những con đường ấy, một lượng lớn vũ khí, khí tài được chuyển giao cho lực lượng vũ trang Liên khu 5 và Tây Nguyên, hơn 2 nghìn cán bộ, chiến sỹ đã được đảm bảo hành quân vào các chiến trường.

Từ năm 1960, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Đường vận tải phía Đông Trường Sơn (Việt Nam) bị địch đánh phá ác liệt.

Được sự đồng ý của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, từ năm 1961, Đoàn 559 đã chuyển hướng mở đường vận chuyển sang phía Tây Trường Sơn (Lào).

Cùng với cán bộ, chiến sỹ ta, nhân dân các bộ tộc Lào đã góp công, góp của để mở đường, nhiều bản làng tự động dời nhà, bỏ nương rẫy để tuyến đường mới đảm bảo được yêu cầu “gần nhất, dễ đi nhất”.

Với việc thực hiện tốt chủ trương mở thêm và xây dựng đường mới ở phía Tây Trường Sơn (Lào) và củng cố đường cũ ở phía Đông Trường Sơn, ta đã phá được thế độc tuyến; đặc biệt từ đường gùi cõng hàng, tiến tới mở đường dùng cho phương tiện thô sơ và bước đầu làm đường cho cơ giới hoạt động.

Bằng các phương thức mang vác, gùi thồ, bằng xe đạp, kể cả thồ bằng ngựa, bằng voi, chỉ trong 4 năm kể từ ngày thành lập, Đoàn 559 đã đưa được 4.400 tấn vũ khí, đạn dược và hơn 31.000 cán bộ chiến sỹ vào chiến trường, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng “Dồn sức cho miền Nam, chuẩn bị phát triển phương thức vận tải cơ giới”, ngày 17/6/1964, Trung đoàn 98 công binh, thuộc Đoàn 559 nhận lá cờ mang 4 chữ: “Mở đường thống nhất” hành quân đi mở đường cơ giới ở Trường Sơn. Ngày 9/8/1964, Trung đoàn 98 chính thức “bổ nhát cuốc” đầu tiên xây dựng tuyến đường từ sông Sê Pôn đi sông Bạc. Từ đó, các tuyến đường càng vươn xa, những đoàn xe càng lớn mạnh, thì sự đánh phá ngăn chặn của không lực Hoa Kỳ càng khốc liệt. Cuộc chiến đấu của Bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến mỗi ngày một cam go.

Năm 1965, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Dựa vào Mỹ, quân lực VNCH cũng dốc sức mở rộng chiến tranh. Đồng thời, đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá ác liệt miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ xa cho chiến trường và phá hủy đường Hồ Chí Minh.

Nhằm kịp thời đối phó với chiến tranh ngăn chặn bằng không quân của Mỹ, bảo vệ hành lang tuyến vận tải chi viện và lực lượng vận tải cơ giới trên đường Trường Sơn, các đơn vị phòng không Trường Sơn đã chiến đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Trong trận chiến đấu bảo vệ trọng điểm Lằng Khằng – miền Tây Quảng Bình, xuất hiện gương chiến đấu vô cùng dũng cảm của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân. Lời hô: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” của anh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, khẩu lệnh chiến đấu của lực lượng pháo phòng không Việt Nam trong những năm đánh Mỹ.

Để tăng nhanh lượng hàng chi viện cho chiến trường, đảm bảo cho lực lượng vũ trang chiến đấu với lực lượng lớn quân Mỹ và chư hầu, Bộ đội Trường Sơn đã thực hành vận chuyển bằng phương thức cơ giới là chủ yếu, tiếp tục mở đường vòng tránh, tăng cường đánh trả máy bay địch. Vì vậy, tuyến đường vận tải vẫn thông suốt. Dòng người, dòng xe vẫn không ngừng tiến ra mặt trận.

Hệ thống đường Trường Sơn

Hệ thống đường giao liên đi các hướng

Hệ thống đường giao liên từ 52 trạm ban đầu, lên tới 67 trạm vào năm 1966, 76 trạm vào năm 1970 và 15 trạm cơ giới năm 1972. Từ năm 1973 đến 1975, bỏ hẳn giao liên bộ, thay thế bằng các Trung đoàn giao liên cơ giới.

Trên các tuyến đường Trường Sơn, có hàng chục binh trạm, hàng trăm bến bãi, hàng nghìn nơi dấu quân, dấu xe, dấu hàng. Ở những nơi đó có các lực lượng giao liên, thanh niên xung phong, công binh mở đường. Lực lượng phòng không, thông tin, bảo vệ có khả năng hiệp đồng chiến đấu đảm bảo tuyến đường vận tải thông suốt, bất chấp cuộc chiến tranh ngăn chặn ngày càng ác liệt của không quân Mỹ.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Macnamara nói: “Mọi người vẫn thấy một khối lượng lớn người và của vẫn tuôn chảy từ miền Bắc vào miền Nam, thế nhưng không thể làm thế nào ngăn chặn được nó”.

Hệ thống đường ô tô vượt Trường Sơn

Trong suốt 10 năm chiến đấu kiên cường (1965 – 1975), bộ đội Trường Sơn đã mở được mạng đường đa tuyến liên hoàn có tổng chiều dài gần 20.000km, với 5 trục dọc, 21 trục ngang.

– Từ năm 1961 đến 1964, mở đường 129 từ ngã ba Lằng Khằng tới mường Phìn (Lào).
– Năm 1965 – 1972, mở tiếp đường 128 tới Bạc rồi tới Phi Hà (Lào), mở thêm 3 trục vượt khẩu: đường 20, đường 18, đường 16 và đường C4 ở Campuchia.
– Năm 1973 – 1975, hình thành 3 trục song song xuống phía Nam để cơ động các quân đoàn chủ lực:
*Trục Đông Trường Sơn: từ Tân Kỳ (Nghệ An), đến Chơn Thành (Bình Phước) dài 1.200km.
*Trục Tây Trường Sơn: từ đường 16 (phía Nam Lào) tới Bù Gia Mập (Bình Phước).
*Trục duyên hải quốc lộ 1: từ sông Bến Hải (Quảng Trị) đến bờ sông Sài Gòn, dài 1.286km.
– Trục ngang: từ các trục dọc có 21 trục ngang xuất phát từ 5 cửa khẩu của 5 tuyến đường, đó là: đường 8, đường 12, đường 20, đường 18, đường 16,… tạo thành mạng đường liên hoàn đến tất cả các hướng chiến trường.

Đường ống xăng dầu

Từ năm 1968, Bộ đội Trường Sơn bắt đầu xây dựng đường ống xăng dầu từ Nam Đàn (Nghệ An), đến năm 1973, dòng xăng đã bơm tới Bù Gia Mập (Bình Phước). Hệ thống đường ống xăng dầu với 1.400km đường ống, 113 trạm bơm, 33 trạm cấp phát xăng dầu lớn, nhỏ, đưa dòng xăng từ miền Bắc đến các chiến trường chỉ cách Sài Gòn hơn 100km.

Đường ngụy trang kín

Từ mùa khô 1971 – 1972, để đối phó với máy bay AC.130 được trang bị hồng ngoại, có khả năng phát hiện mục tiêu ban đêm, Bộ đội Trường Sơn đã mở con đường ở những cánh rừng lớn có cây che phủ; ở những nơi không đủ cây che phủ, bộ đội ta chặt cành cây hoặc làm giàn phong lan ngụy trang kín đường cho xe chạy ban ngày, nâng tốc độ vận chuyển lên gấp 2 đến 3 lần so với tốc độ đi trong đêm tối. Con đường đặc biệt này dài tới 3.000km.

Đường sông

Từ những năm đầu, Bộ đội Trường Sơn đã tận dụng các sông, suối để vận chuyển hàng bằng thuyền, bè, hoặc thả hàng trôi sông để trạm phía dưới đón nhận. Đặc biệt, đã sử dụng công binh để chinh phục những dòng thác dữ, sử dụng vận chuyển cơ giới (thuyền máy) trên sông. Chiều dài của hệ thống đường sông gần 500km.

Hệ thống thông tin

Để đảm bảo sự chỉ huy thông suốt trên toàn địa bàn rộng tới 132.000km2, bộ đội Trường Sơn đã xây dựng được hệ thống thông tin tải ba dọc theo đường Đông – Tây Trường Sơn, kéo dài tới Lộc Ninh, phối hợp với mạng thông tin tiếp sức được triển khai trên toàn tuyến. Ngoài ra, còn có mạng vô tuyến điện báo và hệ thống thông tin dây bọc ở tất cả các đơn vị.

Mạng lưới thông tin này đã đảm bảo sự chỉ huy thống nhất trực tiếp từ Tổng hành dinh Bộ Quốc phòng tới Bộ Tư lệnh Trường Sơn và các đơn vị trên toàn mặt trận, đảm bảo thông suốt, bí mật, kịp thời, bất chấp bom đạn của kẻ thù đánh phá ác liệt. Đặc biệt, mệnh lệnh Tổng tiến công chiến dịch Hồ Chí Minh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mùa Xuân năm 1975, đã truyền qua thông tin tải ba Trường Sơn đến các Quân đoàn, các đơn vị: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và quyết thắng” (ngày 7/4/ 1975).

Những chiến dịch lớn

Có 5 chiến dịch Mỹ, VNCH sử dụng binh chủng hợp thành, như: Khe Sanh, A Sầu, A Lưới, Bắc Tây Nguyên, điển hình là Chiến dịch đường 9 Nam Lào với mục tiêu là chặt đứt đường Hồ Chí Minh, triệt tận gốc nguồn tiếp tế của miền Bắc vào miền Nam và sang 2 nước bạn Lào, Campuchia, với sự tham gia của gần 40.000 quân Sài Gòn, dưới sự yểm trợ của 6.000 quân Mỹ, cùng hàng trăm xe tăng thiết giáp và gần 1.000 máy bay chiến đấu. Nhưng chúng đã thất bại hoàn toàn trước sự chiến đấu anh dũng, sáng tạo của bộ đội Trường Sơn và các lực lượng cùng phối hợp tác chiến.

Để chuẩn bị cho Chiến dịch mùa Xuân 1975 có tính chất quyết định kết thúc chiến tranh, bộ đội Trường Sơn vừa lập các kho hàng chiến lược đảm bảo hậu cần cho toàn chiến trường miền Nam, vừa mở thêm các tuyến đường mới về phía Đông; khôi phục cầu đường Quốc lộ 1A từ Quảng Trị đến Sài Gòn.

Sử dụng toàn bộ lực lượng với tổng số quân trên 120.000 người phục vụ các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Thừa Thiên Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và đặc biệt, đã sử dụng 2 sư đoàn ô tô, với trên 2.000 xe vận tải, chở 3 quân đoàn chủ lực của Bộ, với hơn 10 vạn quân, cùng binh khí kỹ thuật, thần tốc tiến về Sài Gòn, đập tan dinh lũy cuối cùng của chế độ Sài Gòn, hoàn thành sứ mệnh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn dân tộc.

Trong suốt cuộc chiến tranh, đường Hồ Chí Minh luôn trở thành trọng điểm đánh phá quyết liệt của địch bằng đủ các loại vũ khí hiện đại nhất, tối tân nhất. Hàng trăm chiếc máy bay đã rải chất độc hóa học dọc tuyến hành lang vận chuyển. Gần 4 triệu tấn bom đạn và các loại mìn được chế tạo tinh xảo ném xuống Trường Sơn nhằm phá đường, tiêu diệt các đoàn xe, hủy diệt mọi sự sống trên tuyến chi viện chiến lược. Những trọng điểm, như: Xiêng Phan, đèo Văng Mu, đèo Cốc Mạc (đường 128 Tây Trường Sơn), cụm trọng điểm ATP (đường 20)… trong hệ thống trọng điểm Trường Sơn, nổi tiếng bởi sự khốc liệt và mức độ hủy diệt của bom đạn Mỹ. Nhưng, cuộc chiến tranh ngăn chặn bằng các loại vũ khí điện tử hiện đại nhất của Mỹ đã bị thất bại trước ý chí chiến đấu kiên cường, sáng tạo của bộ đội Trường Sơn.

37 di tích tiêu biểu thuộc Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh trọng điểm

Tỉnh Nghệ An:

1. Di tích Km0 – Tân Kỳ (thị trấn Tân Kỳ).

Tỉnh Hà Tĩnh

2. Di tích Ngã ba Đồng Lộc (huyện Can Lộc).
3. Di tích Hương Đô – Hương Khê (huyện Hương Khê).

Tỉnh Quảng Bình:

4. Di tích Ngầm Khe Rinh (huyện Minh Hóa).
5. Di tích Phà Gianh (huyện Bố Trạch).
6. Di tích Đèo Đá Đẽo (huyện Minh Hóa).
7. Di tích Hang Hóa Tiến – Chỉ huy sở Bộ Tư lệnh 559 – Bộ đội Trường Sơn (huyện Minh Hóa).
8. Di tích Bến phà Xuân Sơn (huyện Bố Trạch).
9. Di tích Hang Thông tin Km4 – Đường 20 (huyện Bố Trạch).
10. Di tích Hang NH (Tổng kho NH) (huyện Bố Trạch).
11. Di tích Dốc Ba Thang – Đường 20 Quyết Thắng (huyện Bố Trạch).
12. Di tích Phà Long Đại (huyện Quảng Ninh).
13. Di tích Km0 – Đường 10 (huyện Quảng Ninh).
14. Di tích Cầu Ka Tang (huyện Tuyên Hóa).
15. Di tích Ngã tư Thạch Bàn (huyện Lệ Thủy).
16. Di tích Làng Ho (huyện Lệ Thủy).
17. Di tích Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 – Hiền Ninh (huyện Quảng Ninh).
18. Di tích Hang Tám Thanh niên xung phong (huyện Bố Trạch).

Tỉnh Quảng Trị:

19. Di tích Khe Hó (huyện Vĩnh Linh).
20. Di tích Cầu treo Bến Tắt (huyện Gio Linh).
21. Di tích Nghĩa trang Liệt sỹ QG Trường Sơn (huyện Gio Linh).
22. Di tích Chỉ huy sở BTL559 (1974 – 1975) (huyện Gio Linh).
23. Di tích Cầu ĐắkRông (huyện Đắk Rông).
24. Di tích Cảng Đông Hà (thành phố Đông Hà).

Tỉnh Thừa Thiên – Huế:

25. Di tích Km0 đường B.45A (huyện A Lưới).
26. Di tích Km0 đường B71 (huyện A Lưới).
27. Di tích Cụm địa đạo Chỉ huy Sở Binh trạm 42 (huyện A Lưới).
28. Di tích Dốc Con Mèo (huyện A Lưới).

Tỉnh Quảng Nam:

29. Di tích Bến Giằng (huyện Nam Giang).
30. Di tích Khâm Đức – Chỉ huy sở tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn (huyện Phước Sơn).

Tỉnh Kon Tum:

31. Di tích Mô Ray (huyện Sa Thày).

Tỉnh Gia Lai:

32. Di tích Ia Dom (xã Ia Dom – huyện Đức Cơ).

Tỉnh Đắk Lắk:

33. Di tích Serêpôc (huyện Buôn Đôn).

Tỉnh Đắk Nông:

34. Địa điểm bắt liên lạc Khai thông đường Hồ Chí Minh – đoạn Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ (huyện Đăk Song).
35. Di tích Bu Prăng (huyện Tuy Đức).

Tỉnh Bình Phước:

36. Di tích Bù Gia Mập (huyện Phước Long).
37. Di tích Kho xăng Lộc Quang (huyện Lộc Ninh).

.

Theo DSVH.GOV.VN

Tags: , ,