⠀
Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô: Khi các nguyên tắc dân chủ bị ném vào sọt rác
Đường lối cán bộ của Gorbachev đã tạo ra sự hỗn loạn chưa từng có. Tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ về cơ bản cũng trong tình trạng tê liệt, các chính sách và chỉ thị không ra khỏi điện Kremlin. Đến lúc này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã rơi vào tình thế không thể nào cứu vãn nổi.
Ngay từ khi lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế, đặc biệt là phong trào của Đảng Xã hội dân chủ Đức, Marx và Engels đã đưa ra và vận dụng các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng Đảng ở Nga, Lenin đã kế thừa và phát huy tư tưởng này.
Tháng 12/1905, Hội nghị thứ nhất Đảng Bolshevik đã lần đầu áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu rõ trong nghị quyết: Nguyên tắc chế độ tập trung dân chủ không có gì phải tranh cãi.
Tháng 4/1906, theo đề nghị của Lenin, Đại hội đại biểu thống nhất lần thứ 4 Đảng Bolshevik thông qua điều lệ tổ chức, trong đó điều hai quy định: Mọi tổ chức của Đảng đều được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định trong điều lệ Đảng.
Tháng 7/1920, điều lệ gia nhập Quốc tế Cộng sản do Lenin quy định: Đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản cần được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Kể từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ trở thành nguyên tắc phổ biến mà đảng Cộng sản các nước trên thế giới đều tuân thủ.
Khi Lenin còn sống, Đảng thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể. Hạt nhân lãnh đạo của Đảng là BCH T.Ư Đảng. Khi đó, số uỷ viên T.Ư còn ít, tổ chức hội nghị tương đối dễ dàng và thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể theo hình thức: Khi quyết định một vấn đề nào đó, mỗi một uỷ viên đều có quyền bình đẳng phát biểu ý kiến. Sau khi thảo luận kỹ càng sẽ tiến hành bỏ phiếu và thông qua theo đa số. Mỗi một uỷ viên chỉ có một phiếu biểu quyết.
Trong các cuộc họp của Đảng, báo cáo của Lenin thường nhận được sự đánh giá cao của đa số các đại biểu. Tuy nhiên, cũng có một số ít phê bình gay gắt báo cáo của Lenin và Lenin luôn lắng nghe một cách nghiêm túc. Đảng có lãnh tụ và lãnh đạo các cấp, nhưng không có sự sùng bái cá nhân đối với họ. Mỗi một đảng viên được hưởng đầy đủ các quyền quy định trong điều lệ Đảng.
Trong Đảng không chia ngôi thứ cao cấp, và tuyệt đối không có đảng viên đặc biệt. Cơ quan lãnh đạo và lãnh đạo các cấp của Đảng được bầu lên đều thông qua bầu cử, phải báo cáo công tác trước đảng viên và có thể bị bãi miễn. Lenin cho rằng: Trong Đảng có quyền tự do thảo luận, phê bình và phát biểu ý kiến. Nếu không có quyền tự do thảo luận và phê bình thì giai cấp vô sản sẽ không thể nhất trí trong hành động. Trong các cuộc họp Đảng khi đó, không có sự tung hô, tâng bốc. Vấn đề góp ý, phê bình tự nhiên như việc con người hít thở khí trời vậy.
Năm 1921, khi giải tán phe đối lập trong Đảng, Lenin đã yêu cầu phải xem xét nghiêm túc những vấn đề mà phe đối lập đặc biệt quan tâm cũng như ý kiến thiết thực của họ chống lại tình trạng quan liêu, phát huy dân chủ và tinh thần tự chủ của công nhân. Song song với việc nhấn mạnh tính dân chủ trong đảng, trong đó có việc bảo vệ quyền lợi của bất kỳ thiểu số nào, Lenin còn nhấn mạnh tới tính tập trung trong Đảng, đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”, “bộ phận phục tùng tổng thể”. Tuyệt đối không cho phép trong Đảng xuất hiện hoạt động phe phái, cũng như khuynh hướng vô chính phủ.
Lenin nêu rõ: Nhất trí trong hành động, tự do trong thảo luận và phê bình, đây là kỷ luật mà chính đảng dân chủ giai cấp tiên tiến cần phải có. Đặc biệt, sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, trong bối cảnh nước ngoài can thiệp vũ trang, nội chiến trong nước phức tạp, các thế lực thù địch trong và ngoài nước sử dụng mọi thủ đoạn phá hoại đoàn kết trong Đảng, tư tưởng “phi vô sản” tràn lan trong Đảng, Lenin đã đặc biệt nhấn mạnh tính tập trung, đoàn kết, kỷ luật. Ông nói: Giai cấp vô sản thực hiện tập trung vô điều kiện là một trong những điều kiện cơ bản để chiến thắng giai cấp tư sản. Bất kỳ ai, dù chỉ là một chút lơi lỏng kỷ luật thép của chính đảng giai cấp vô sản thì người đó trên thực tế đã tiếp tay cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản. Đây chính là hình thái gốc của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Lenin đề xướng, xây dựng và hướng dẫn thực hiện.
Sau Cách mạng tháng Mười, do sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc và sự phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước, Đảng Bolshevik không thể không áp dụng chế độ tập trung cao độ, quyền lực tối cao tập trung vào Bộ Chính trị T.Ư Đảng, chế độ ủy nhiệm cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền thay thế cho chế độ bầu cử trong thực hiện mệnh lệnh chiến đấu. Điều này bảo đảm cho chính quyền Xô Viết non trẻ vượt qua được những thử thách gay gắt, song cũng để lại một hệ lụy là đời sống dân chủ trong Đảng bị suy yếu, quyền dân chủ của đảng viên bị hạn chế, dẫn đến khuynh hướng một số tổ chức Đảng và cá biệt một vài lãnh đạo có tính chuyên quyền, độc đoán, đòi hỏi đặc quyền, quan liêu, xa rời quần chúng.
Trước tình hình đó, Lenin muốn xây dựng một cơ quan giám sát trong Đảng có tính độc lập, có uy tín cao để tăng cường và hoàn thiện chế độ giám sát trong Đảng, bảo đảm quán triệt chế độ tập trung dân chủ trong Đảng. Từ Đại hội IX đến đại hội XII, dưới sự chỉ đạo của Lenin, việc xây dựng cơ chế giám sát trong Đảng có sự phát triển rất lớn. Lenin đã đích thân chủ trì Đại hội X, Đại hội XI Đảng Cộng sản Liên Xô lần lượt thông qua Nghị quyết về Ủy ban Giám sát và Điều lệ Ủy ban Giám sát.
Năm 1923, khi lâm bệnh nặng, Lenin vẫn viết bài “Chúng ta cần làm gì để cải tổ Viện kiểm sát công nông cho Đại hội XII”, trong đó trình bày một cách khoa học về tư tưởng giám sát và chế độ giám sát của Đảng và Chính phủ.
Đại hội đại biểu XI là Đại hội cuối cùng Lenin tham gia. Dưới dự lãnh đạo của ông, Đại hội đã xây dựng được một hệ thống giám sát trong Đảng tương đối hoàn chỉnh, đó là thành lập Ủy ban Kiểm tra T.Ư và Ủy ban Giám sát T.Ư. Đồng thời quy định các ủy viên trong hai ủy ban này phải có 10 năm tuổi đảng trở lên. Ủy ban Kiểm tra T.Ư gồm ba người, chủ yếu phụ trách công tác kiểm tra cơ quan trung ương và Ban Bí thư, cũng như kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí T.Ư. Ủy ban Giám sát T.Ư và Ủy ban Giám sát các cấp do đại hội đảng các cấp bầu ra, chủ yếu phụ trách công tác giám sát của tổ chức các cấp tương ứng.
Thời kỳ đầu, Stalin làm Tổng Bí thư, chế độ tập trung dân chủ và các chế độ giám sát liên quan tiếp tục được quán triệt tốt. Khi họp Bộ Chính trị, Stalin thường không nói gì, ông ngậm tẩu đi đi, lại lại chung quanh bàn họp, chăm chú lắng nghe từng đồng chí phát biểu. Cuối cùng ông mới lên tiếng, quyết định sau khi bàn thảo.
Năm 1936, Hiến pháp Liên Xô sau khi được toàn dân thảo luận trong năm tháng rưỡi được trình lên Đại hội đại biểu Liên bang Xô Viết thông qua.
Đêm 21/6/1941, đêm trước ngày phát-xít Đức tiến công Liên Xô, Stalin đã chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị đến tận sáng. Sau Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1934, vị trí của Stalin trong Đảng vững như bàn thạch, uy tín của ông không ai sánh kịp, lời khen ngợi dành cho ông không ngớt. Trong nhiều vấn đề, ông bắt đầu tỏ ra quá tự tin, thậm chí độc đoán.
Rồi đại hội Đảng không thể diễn ra theo đúng định kỳ, Đại hội XVIII diễn ra vào năm 1938 và phải 13 năm sau, Đại hội XIX mới được tổ chức. Đương nhiên, chiến tranh là một nhân tố khiến cho việc tổ chức đại hội bị hoãn lại, nhưng nhân tố mang tính quyết định vẫn là do sinh hoạt chính trị trong Đảng không thường xuyên.
Một minh chứng nữa là sau chiến tranh, từ năm 1947 đến năm 1952 không có một hội nghị toàn thể T.Ư nào được tổ chức. Trong các văn bản của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1934 rất khó có thể tìm được một nghị quyết do các ủy viên Bộ Chính trị biểu quyết thông qua, mà đa số nghị quyết là do Stalin trình bày miệng sau đó thư ký chép lại.
Trên rất nhiều văn kiện trong tháng 9, còn đặc biệt chú thích “chưa trưng cầu ý kiến”. Tuy nhiên, cũng không thể dựa vào đó mà kết luận rằng, mọi quyết sách trong thời gian này đều là kết quả từ sự độc đoán của Stalin.
Zhukov, lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội Liên Xô đã viết trong hồi ký: Trong suốt thời kỳ chiến tranh, Bộ Chính trị T.Ư Đảng, Ban Tổ chức T.Ư Đảng và Ban Bí thư đã họp tổng cộng hơn 200 lần để nghiên cứu thảo luận về những vấn đề trọng đại như: quốc phòng, ngoại giao, phát triển kinh tế. Ủy ban Quốc phòng do Stalin lãnh đạo đã đưa ra hơn 10.000 nghị quyết. Trong Ủy ban Quốc phòng, thường xuyên có những ý kiến trái ngược nhau. Nếu không đạt được ý kiến nhất trí thì ngay lập tức hai bên tranh luận cử đại diện tham gia một ủy ban chuyên môn, chịu trách nhiệm đưa ra kiến nghị đã được hiệp thương nhất trí để bàn thảo tại hội nghị lần sau.
Từ thời Stalin, chế độ giám sát đồng bộ tương đối hoàn chỉnh do Lenin đích thân xây dựng đã không được thực hiện một cách triệt để. Đến năm 1934, Điều lệ Đảng do Đại hội XVII thông qua đã đưa ra quy định mới về chức năng của Ủy ban Giám sát. Theo đó, Ủy ban này có ba quyền hạn: giám sát việc thực hiện các nghị quyết của BCH T.Ư, xem xét và xử lý những phần tử vi phạm kỷ luật Đảng, xem xét và xử lý những phần tử vi phạm đạo đức Đảng.
Nghĩa là cơ quan giám sát chỉ giới hạn trong việc kiểm tra hoạt động của tổ chức cấp dưới, giám sát hoạt động của những phe đối lập và đảng viên bất đồng ý kiến. Về căn bản, cơ quan giám sát không thể giám sát cơ quan lãnh đạo và thành viên cơ quan lãnh đạo thuộc tổ chức đảng ngang cấp.
Tính nghiêm trọng của vấn đề còn thể hiện ở chỗ, bản thân cơ quan giám sát được giao trọng trách điều tra, xử lý chủ nghĩa quan liêu lại cũng bị nhiễm căn bệnh quan liêu. Việc giám sát các tổ chức đảng và các cán bộ cấp dưới thường được tiến hành chiếu lệ. Kiểu kiểm tra qua loa, chiếu lệ diễn ra ngày càng nhiều, gây phản cảm cho cấp dưới.
Sinh hoạt dân chủ trong Đảng không thường xuyên, công tác giám sát trong Đảng không được thực hiện nghiêm chỉnh đã tạo điều kiện cho các hoạt động tiêu cực trong đảng phát triển. Khi thảo luận Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XVIII, các ủy viên trong Bộ Chính trị chỉ có khen và khen. Stalin nói: Báo cáo các đồng chí thảo luận đã bị bỏ, báo cáo mới sửa các đồng chí còn chưa xem. Sau một lát lúng túng, Beria, con người rất giỏi nịnh bợ, nói: Bản thân bản báo cáo này đã quá hay, tin rằng sau khi được đồng chí Stalin sửa chữa báo cáo sẽ còn tuyệt vời hơn nữa (!)
Hồi ấy, trong Đảng Cộng sản Liên Xô, mọi người hầu như không nói thật. Trên đây chỉ là một thí dụ về thói nịnh bợ, nói vuốt đuôi. Đối với những đồng chí có ý kiến bất đồng trong Đảng, Stalin đã có lúc sai lầm khi áp dụng phương thức đấu tranh tàn khốc, đấu tranh thẳng thừng, mở rộng, thậm chí là mở rộng nghiêm trọng phạm vi đối tượng bị công kích. Bởi vậy rất khó có thể nghe tiếng nói khác trong Đảng và quyền giải thích chân lý luôn bị cá nhân thao túng.
Dưới thời Khrushchev và Brezhnev, về hình thức vẫn nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, song thật ra chỉ thay đổi từ một người quyết định thành một vài người quyết định mà thôi. Trên thực tế, không thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Theo quy định trong điều lệ đảng, các cuộc họp của Đảng, nhất là đại hội đại biểu của Đảng, là định chế quan trọng để thực hiện chế độ tập trung dân chủ, giám sát dân chủ trong Đảng. Thế nhưng theo biên bản còn lưu lại của một tổ chức đảng khu vực thuộc Kazakhstan, thì từ năm 1974 đến năm 1975, tổ chức này đã tổ chức 72 cuộc họp, tổng cộng có hơn 600 nguời phát biểu, nhưng chỉ có 12 người nêu ý kiến đối với những người lãnh đạo Đảng, còn những người khác hầu như đều nói những lời sáo rỗng, khuôn phép, tán tụng. Những người dám nói thật, dám phê bình đều bị công kích, và bức hại.
Tại một hội nghị quán triệt tinh thần Đại hội 25 của Đảng, một kỹ sư cấp cao của Cục đường sắt Nam Ural phát biểu ý kiến, cho rằng: Báo cáo công tác của Brezhnev tại đại biểu thiếu tinh thần phê bình, việc ca tụng thái quá công lao của ông chính là kiểu “sùng bái cá nhân”. Sau đó, người này bị khai trừ khỏi Đảng.
Thời kỳ đầu, Brezhnev có sửa đổi một chút đường lối tổ chức của Khrushchev, như: tăng cường sự lãnh đạo của T.Ư trong thể chế quản lý vùng; bảo đảm sự ổn định tương đối của đội ngũ cán bộ. Xét về tổng thể, những sự sửa đổi này lúc ấy đã đóng vai trò tích cực nhất định nhưng chưa giải quyết vấn đề về cơ bản, không những thế còn gây ra những hệ luỵ mới. Cuối cùng, thời Brezhnev lại xuất hiện các biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, bằng cách vứt bỏ giám sát trong Đảng, dùng ý chí cá nhân hoặc thiểu số để thay thế trí tuệ của đa số.
Vào năm 1979, tình hình tại Afghanistan có biến động, lãnh đạo Afghanistan nhờ Liên Xô đưa quân sang giúp. Tại cuộc họp của Bộ Chính trị vào tháng 3, các thành viên đều nhất trí rằng: Không có bất cứ lý do gì để đưa quân sang Afghanistan. Tuy nhiên, ngày 4/12, Brezhnev đã cùng Bí thư T.Ư Suslov, Chủ tịch KGB Antropov, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng tổ chức cuộc họp bí mật gồm năm người, thay đổi nghị quyết của Bộ Chính trị, quyết định đưa quân đội đến Afghanistan. Cuộc chiến này kéo dài mười năm, 50.000 binh sĩ hy sinh, tổn thất hàng chục tỷ USD, gây đau thương cho không biết bao nhiêu gia đình.
Thời Gorbachev càng đi ngược lại với nguyên tắc tập trung dân chủ, đi tới một cực đoan khác. Tại Hội nghị toàn thể T.Ư tháng 2/1990, Gorbachev chủ trương: Nhận thức lại nguyên tắc tập trung dân chủ với trọng điểm tập trung vào dân chủ hóa và quyền lợi của quần chúng đảng viên; trong quan hệ cấp trên – cấp dưới, thực hiện nguyên tắc tự trị trong các tổ chức Đảng; trong quan hệ T.Ư với địa phương, T.Ư Đảng ở các nước cộng hòa trong Liên bang nếu không đồng ý với nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô thì có thể không thực hiện.
Điều đó có nghĩa là Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là một tổ chức chiến đấu thống nhất về ý chí và hành động. Hội nghị toàn thể đó đã đánh dấu một bước ngoặt trong diễn biến chính trị Liên Xô, báo hiệu Liên Xô sẽ có một sự thay đổi to lớn. Khẩu hiệu “dân chủ hóa, công khai hóa” đã làm xuất hiện một trào lưu tự do tư sản và đây chính là điều mà Gorbachev cần để thực hiện đường lối chính trị của mình.
Ông ta muốn lấy nó để đẩy nhanh việc thực hiện đa đảng và tư hữu hóa ở Liên Xô, đẩy nhanh sự suy vong của Đảng Cộng sản Liên Xô. Những nhân vật sùng bái CNTB trong Đảng được thể lấn lướt, trong khi một số nhà lãnh đạo Đảng khác của Liên Xô lại từng bước nhượng bộ. Dẫn đến một hậu quả khác là trào lưu tư tưởng tự do tư sản tràn lan. Cái gọi là dân chủ và tự do tuyệt đối, bề ngoài là phủ nhận quyền uy và kỷ luật tổ chức, nhưng bên trong là để thực hiện quyền uy, trật tự và tự do của sự thống trị của CNTB.
Tháng 7/1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội 28. Trong báo cáo trình bày tại Đại hội, Gorbachev công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, cho rằng: trong Đảng có một luồng tâm tư mãnh liệt chủ trương xoá bỏ nguyên tắc này khỏi điều lệ Đảng; bởi toàn bộ thực tiễn trước đây đã khiến thanh danh của nguyên tắc này trở nên tồi tệ (!).
Điều lệ Đảng do Đại hội thông qua đã chính thức xóa bỏ nguyên tắc chỉ đạo của bộ máy tổ chức và toàn bộ hoạt động của Đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ. Như vậy là, nguyên tắc tập trung dân chủ và giám sát trong Đảng – những điều được coi là chuẩn tắc sinh hoạt trong đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã bị vứt bỏ. Điều đáng nói là Gorbachev đã lấy khẩu hiệu “dân chủ hóa” để che đậy việc dùng biện pháp chuyên chế cực đoan cá nhân, tiến hành đường lối của ông ta.
Khi họp Bộ Chính trị, ông ta thường không lắng nghe ý kiến của các ủy viên khác. Thậm chí một mình ông ta thao thao bất tuyệt một, hai giờ đồng hồ, sau đó coi đây là chỉ thị hay nghị quyết của Đảng để thực hiện. Ngày 24/8/1991, khi chưa hề thực hiện bất cứ một trình tự pháp lý nào, thực chất là tự ý cá nhân, ông ta đã quyết định và tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Liên Xô.
Đường lối cán bộ là bộ phận rất quan trọng cấu thành đường lối tổ chức, chính vì vậy Stalin có một câu nói nổi tiếng rằng: Sau khi xây dựng được đường lối chính trị đúng đắn kinh qua sự kiểm nghiệm của thực tiễn, cán bộ đảng sẽ trở thành lực lượng quyết định đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô gắn liền với một loạt sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô quy định: tổ chức Đảng các cấp đều phải do bầu cử. Thế nhưng, trên thực tế, dưới thời Stalin, một số ứng cử viên của tổ chức đảng các cấp thường do một số người quyết định. Việc bầu cử trong Đảng, thực chất, chỉ được thực hiện một cách hình thức.
Năm 1952, Đoàn chủ tịch Đại hội 19 – tương đương với Bộ Chính trị, gồm 25 người đều do Stalin và một, hai người nữa quyết định rồi công bố. Việc cá biệt một số nhà lãnh đạo bổ nhiệm cán bộ thay vì tiến hành bầu cử bầu ra cơ quan lãnh đạo và thành viên cơ quan lãnh đạo đã làm mất đi sự giám sát cần có đối với nhiều nhà lãnh đạo, bất chấp ý kiến của đông đảo đảng viên và quần chúng. Điều đó tạo điều kiện để một số người, thậm chí là một số kẻ tham vọng cá nhân, đề bạt người quen thân, tẩy chay người có ý kiến khác với mình.
Hồi Khrushchev học tại trường đại học, đúng vào dịp đấu tranh trong Đảng đang diễn ra gay gắt, ông ta cũng như nhiều đảng viên khác đứng về phía Stalin. Đồng thời ông ta thông qua nhiều kênh, đặc biệt thông qua vợ của Stalin, bạn cùng học với ông ta ở đại học, để bắn tin tới Stalin cái gọi là “sự trung thành của mình”. Trong hồi ký, Khrushchev viết: Sở dĩ tôi được đề bạt vì Stalin luôn chú ý đến tôi qua vợ của ông, là Nadezhda. Bà luôn tán tụng tôi trước mặt Stalin, Stalin liền bảo Kananovich giúp đỡ tôi. Kể từ đó, Khrushchev a dua, nịnh bợ Stalin đến độ không thể hơn được.
Mấy chục năm sau, Gorbachev cũng có một hồi ức tương tự. Ông ta kể rằng: Khi giữ chức Bí thư T.Ư Đảng, Chernenko bảo tôi, “Brezhnev biết đồng chí đứng về phía đồng chí ấy, trung thành với đồng chí ấy. Đồng chí ấy rất coi trọng điều này”.
Cũng chính bởi vứt bỏ chế độ tập trung dân chủ trong vấn đề cán bộ, tiêu chuẩn chính trị, nguyên tắc tài – đức trong việc tuyển chọn, đề bạt cán bộ của Đảng dần bị thay thế bởi quan hệ quen thân, cho nên hiện tượng xây dựng ê kíp, kéo bè, kéo cánh trong Đảng trở nên phổ biến.
Dưới thời Brezhnev, khi xem xét, cân nhắc, đề bạt một ai đó, vấn đề quan trọng hàng đầu không phải là căn cứ vào năng lực của người đó, mà xem xem người đó có quan hệ với phe của Brezhnev hay không? Brezhnev tốt nghiệp Học viện Luyện kim Dneprodzerzhynsk, từng làm việc trong thời gian dài tại Ukraine, Moldova, Kazakhstan, Dnepropetrovsk.
Nhiều người thân tín chung quanh ông ta đều là những kẻ không có đủ tài – đức, trong đó không ít người là cấp dưới và bạn bè ông ta ở những nơi ông ta từng học tập và công tác. Người ta gọi đây là phe Dnepropetrovsk. Phe Dnepropetrovsk từng oai phong, hiển hách một thời. Nikolai Tikhonov, con người tài – đức rất đỗi bình thường, nhưng do là đồng hương kiêm bạn học của Brezhnev mà được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Khi Gorbachev lên nắm quyền, ông ta ra sức phanh phui, thậm chí phóng đại tiêu cực trong Đảng, mượn đủ lý do để đề bạt người thân, làm một cuộc thay đổi lớn về nhân sự trong đội ngũ cán bộ. Đặc biệt là ông ta thẳng tay thay thế những cán bộ phản đối cái gọi là “cải tổ” của ông ta và kiên trì con đường XHCN. Đồng thời đề bạt những cán bộ ủng hộ chủ trương “tây hóa hoàn toàn” của ông ta.
Lên nắm quyền hơn nửa năm, Gorbachev đã cải tổ Bộ Chính trị và Ban Bí thư, bổ sung tám người vào các vị trí ủy viên chính thức, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Cách chức hai người, đồng thời cách chức thay thế hơn 20 bộ trưởng và hàng chục lãnh đạo cấp bộ trong Hội đồng Bộ trưởng và các ban đảng. Chỉ trong mấy năm, 92,5% trong 150 bí thư khu ủy, thành ủy, tỉnh ủy bị thay đổi.
Đường lối cán bộ của Gorbachev đã tạo ra sự hỗn loạn chưa từng có trong đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, quân đội Liên Xô, đã làm tổn hại to lớn uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, khiến đông đảo cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân không tin Đảng, lạnh nhạt với các nghị quyết và chỉ thị của Đảng.
Tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ về cơ bản cũng trong tình trạng tê liệt, các chính sách và chỉ thị không ra khỏi điện Kremlin. Đến lúc này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã rơi vào tình thế không thể nào cứu vãn nổi.
Theo NHÂN DÂN ONLINE (2010)
Tags: Dân chủ, Mikhail Gorbachev, Sự sụp đổ của Liên Xô, Liên Xô