Âm nhạc giảm thiểu – một xu hướng phản kháng của âm nhạc thế kỷ 20

Cho dù bị chỉ trích từ nhiều nhà phê bình, nhưng âm nhạc giảm thiểu đã có một chỗ đứng khá vững chắc trong lòng công chúng và gặt hái được nhiều thành công cho đến những năm 1980 – 1990, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Âm nhạc giảm thiểu – một xu hướng phản kháng của âm nhạc thế kỷ 20

Thuật ngữ ‘giảm thiểu’ được ra đời từ một nhóm họa sĩ ở New York, mà tôn chỉ sáng tác của nhóm họa sĩ này là hướng tới sự đơn giản nhất có thể để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật dễ dàng được công chúng đón nhận. Những tác phẩm hội họa tiêu biểu nhất của nghệ thuật giảm thiểu đơn giản chỉ là những đường kẻ và các chấm.

Âm nhạc giảm thiểu (minimal music) là một xu hướng sáng tác của âm nhạc đương đại, bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 TK XX ở Mỹ (mặc dù nó lại được coi là một phần quan trọng của âm nhạc cổ điển Mỹ). Ở Pháp, xu hướng sáng tác này được gọi là loại âm nhạc lặp lại, vì trong các tác phẩm viết theo kiểu này luôn sử dụng một kỹ thuật điển hình đó là nhắc lại. Những nhạc sĩ tiêu biểu của trường phái âm nhạc giảm thiểu là La Monte Young, Terry Riley, Steve Reich, Philip Glass và John Adam. Tác phẩm được coi là đặt nền móng cho âm nhạc giảm thiểu là In C (trên giọng đô trưởng) của T.Riley viết vào năm 1964.

Nhìn chung, âm nhạc giảm thiểu là sự quay trở về với loại âm nhạc có điệu tính, đôi khi sử dụng cả điệu thức trung cổ, có mạch đập tiết tấu đều đặn và sự lặp đi lặp lại của một môtip âm nhạc ngắn. Đặc điểm cơ bản của âm nhạc giảm thiểu chính là sự lặp đi lặp lại một câu nhạc có giọng điệu rõ ràng và tiết tấu vững chắc. Sự biến đổi tiếp theo có thể dùng thủ pháp canon, tăng cường hòa âm hoặc màu sắc của các nhạc cụ. Mục đích của loại âm nhạc này làm cho người nghe nhớ giai điệu và dần dần dẫn con người đến trạng thái thôi miên hoặc ru ngủ.

Như vậy, thực chất âm nhạc giảm thiểu ra đời là sự công kích chống lại sự phức tạp của âm nhạc serie toàn phần đang thống trị ở châu Âu vào thời điểm đó, hay nói cách khác, âm nhạc giảm thiểu được coi là sự nổi dậy của người Mỹ để chống lại châu Âu. Những nhạc sĩ thuộc trường phái âm nhạc giảm thiểu cũng muốn nhấn mạnh đến yếu tố cảm xúc trong các tác phẩm, điều đang bị bỏ ngỏ trong các tác phẩm viết theo âm nhạc seri toàn phần, một loại âm nhạc đề cao nhân tố trí tuệ của con người hơn là trái tim.

Sau điểm khởi đầu khá gần với âm nhạc cổ điển, các nhạc sĩ thuộc trường phái âm nhạc giảm thiểu bắt đầu tìm những hướng đi mới. Vào thời gian đó, âm nhạc của châu Á (đặc biệt là âm nhạc Ấn Độ và Indonesia) đã được nhiều người biết đến, và bắt đầu phát triển rất phổ biến ở Mỹ. Trong hai loại âm nhạc này, có rất nhiều những quãng nhỏ hơn nửa cung và có những tiết tấu rất khác biệt so với âm nhạc Tây Âu. Chính vì sự mới lạ nên nhiều nhạc sĩ đã tổng hợp các nhân tố này, sau đó kết hợp với những nét đặc trưng có trong nhạc rock, jazz, blue, nhạc ngẫu hứng, điện tử có từ những năm 30-40 TK XX, đó là hòa âm nghịch, các câu nhắc lại và bè trì tục để tạo thành một tác phẩm mới. Vào khoảng thời gian đó, người ta thấy trên vô tuyến truyền hình và nhiều bộ phim mới sản xuất đã sử dụng rất nhiều tác phẩm âm nhạc giảm thiểu kiểu này, điển hình là những tác phẩm của P.Glass, và được đông đảo công chúng đón nhận. Tuy nhiên, âm nhạc giảm thiểu cũng nhận được nhiều lời chỉ trích từ các nhà phê bình âm nhạc. Họ cho rằng âm nhạc giảm thiểu là loại âm nhạc thương mại, phiến diện và không có tâm hồn.

L.M. Young (sinh 1935) được coi là người đi tiên phong cho xu hướng sáng tác âm nhạc giảm thiểu. Cuối những năm 50 TK XX, ông đã sử dụng lại những tác phẩm viết theo nguyên tắc của âm nhạc serie và mang đến cho nó một dáng vẻ hoàn toàn mới. Điển hình là tác phẩm Tam tấu cho đàn dâyviết vào năm 1958. Trong tác phẩm này L.M. Young đã lấy cảm hứng từ những sáng tác của Webern (một nhạc sĩ tiêu biểu của trường phái Viên mới sáng tác theo kỹ thuật dodecaphone) rồi sử dụng một nốt ngân dài trong nhiều phút trên nền những hợp âm thuận và những hợp âm bảy trưởng. Tác phẩm mang lại một cảm giác hoàn toàn mới lạ, như dẫn người nghe đến một thế giới khác.

Trong tác phẩm Con rùa: những giấc mơ và cuộc hành trình của nó, L.M. Young đã áp dụng nguyên tắc ngẫu hứng của một nhạc công và một ca sĩ theo kiểu biến tấu hòa thanh trên nguyên tắc đã tổng hợp lại. Chính nhạc sĩ cũng đã chơi rất nhiều bản nhạc theo nguyên tắc sử dụng một motif giai điệu như một bè trì tục, trên đó là các biến tấu và các câu chơi lệch nhau.

Khoảng từ năm 1961, L.M. Young đã chú ý đến loại âm nhạc ngẫu hứng. Ông đã viết một tác phẩm cho kèn saxophone sopranino mà ở đó, nhạc công sẽ chơi ngẫu hứng trên những điệu thức trung cổ với tốc độ nhanh và đệm bằng bourdon (một loại nhạc cụ quay cổ). Tác phẩm chịu ảnh hưởng từ John Coltrane và âm nhạc của người Ấn Độ.

Nếu như L.M. Young được coi là người đặt nền tảng cho âm nhạc giảm thiểu, thì T.Riley (sinh 1935) lại được coi là người đã mở ra hai nhân tố đặt nền móng cho âm nhạc giảm thiểu: việc quay trở lại âm nhạc có điệu tính và sự nhắc lại của một môtip âm nhạc. Trong tác phẩm Tứ tấu đàn dây viết vào năm 1960, T.Riley đã đến gần với loại âm nhạc có giọng điệu, lấy cảm hứng từ nốt ngân dài trong bản Tam tấu cho đàn dây của L.M. Young. Còn trong bản Tam tấu cho đàn dây viết năm 1961, T.Riley sử dụng kỹ thuật nhắc lại nhờ vào băng từ được thử nghiệm ở Trung tâm âm nhạc San Francisco. T.Riley đã làm rất nhiều thử nghiệm với băng từ. Ông đã ghi lại tiếng piano, giọng nói, tiếng cười hay cả chương trình ở đài phát thanh, sau đó sử dụng chúng dưới dạng những môtip nhắc lại. T.Riley đã gặt hái được nhiều những thành công với băng từ, và đỉnh cao nhất chính là tác phẩm In C viết vào năm 1964, đánh dấu một bước quan trọng trong việc để các nhà phê bình có thể đưa ra được định nghĩa về âm nhạc giảm thiểu. Ngay cái tên của tác phẩm (giọng đô trưởng) cũng chỉ ra một sự đơn giản nhất trong vấn đề về giọng điệu để bất cứ một nhạc công nào, hoặc bất cứ một loại nhạc cụ nào cũng có thể chơi được. Tác phẩm gồm 53 môtip âm nhạc, mỗi lần nhắc lại, nhạc sĩ mong mọi người nhớ đến nó. Đây được coi là tác phẩm đặt nền móng cho âm nhạc giảm thiểu, bởi nó có mạch đập đều đặn, âm nhạc có giọng điệu, các môtip âm nhạc ngắn được lặp lại, và tất cả những nhân tố này tạo nên một thế giới âm thanh rất độc đáo. Tác phẩm thu âm ở hãng đĩa Colubia và được phát hành dưới dạng đĩa nhựa vào năm 1968. In C đã được đón nhận rất nồng nhiệt ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là nhạc sĩ Takomitsu (người Nhật Bản) và nhạc sĩ Cornelius Cardew (người Anh) đã đánh giá rất cao tác phẩm này.

Năm 1969 T.Riley đã viết tác phẩm Cầu vồng trên đường cong của chân trời, dựa trên một thang âm và tiết tấu của Ấn Độ cho đàn phín diễn tấu. Tác phẩm được công chúng tán thưởng nồng nhiệt, và chính nó đã khẳng định vị trí của ông trong dòng chảy âm nhạc lúc bấy giờ.

Nối tiếp các kỹ thuật mà T.Riley đã đặt nền móng, Steve Reich (sinh 1936) đã phát triển kỹ thuật gần như canon. Ông sử dụng một câu nhạc và chồng lên đó là băng từ của nhiều giọng nói. Hai tác phẩm Piano Phase (1967) và Violon Phase (1967) được coi là những tác phẩm tiêu biểu nhất. Trong tác phẩm Violon Phase, T.Reich đã chồng violon với ba băng từ. Vào năm 1979, khi xuất bản tác phẩm này, ông đã cho chồng 4 violon hoặc 1 violon cùng 3 tổng hợp thu thanh.

Người đạt được những thành công vang dội nhất viết theo ngôn ngữ âm nhạc giảm thiểu, chính là Philip Glasse (sinh 1937). Lấy từ những kinh nghiệm thử nghiệm băng từ của T.Reich, P.Glass đã có bước tiến xa hơn. Âm nhạc của P.Glass chịu ảnh hưởng của âm nhạc châu Phi và âm nhạc Ấn Độ trên phương diện tiết tấu; chịu ảnh hưởng về giai điệu, hòa âm nghịch, sự tăng cường độ của nhạc rock. P.Glass đã xuất bản 20 tác phẩm sau khi tốt nghiệp trường Juilliard khi cùng làm việc với Nadia Boulanger và sau đó là Pierre Boulez. Quan điểm của ông là âm nhạc “không có khởi đầu, không có kết thúc”. P.Glass đã chứng minh quan điểm của mình qua vở nhạc kịch Einstein trên bãi biển, viết vào năm 1976 gồm 1 màn dài 4h30′. Sau sự thành công của nhạc kịch, tên tuổi của P.Glass trở nên nổi tiếng hơn nhờ vào những tác phẩm viết cho nhạc phim lấy chất liệu từ nhạc pop. Ngoài ra ông còn viết 6 tứ tấu, 9 giao hưởng, 6 concerto với những chủ đề và tiết tấu khác nhau, nhưng tất cả đều rất đáng nhớ và là những tác phẩm điển hình của âm nhạc giảm thiểu.

Sau những thành công vang dội của P.Glass, ở New York đã có hàng loạt nhạc sĩ đi theo con đường sáng tác này như Meredith Monk, Frederic Rzewski, Pauline Oliveros, James Tenney… Xu hướng sáng tác âm nhạc giảm thiểu cũng lan mạnh sang châu Âu với những tên tuổi như Louis Andriessen (Hà Lan), Gavin Bryar và Michael Nyman (Anh), Renaud Gagneux (Pháp), Arvo Part (Estonia), Henryk Górecki (Ba Lan)…

Sự thành công của âm nhạc giảm thiểu cũng là tiền đề cho sự phát triển của nghệ thuật nhảy múa đương đại. Rất nhiều nhà biên đạo múa nổi tiếng trên thế giới, đã chọn âm nhạc đương đại cho các tác phẩm múa của mình như Merce Cunninggham, Morton Ferdman, Anna Halrpin, Mats Ek…

Mối liên hệ mật thiết giữa hội họa và âm nhạc giảm thiểu cũng được thể hiện rõ nét. Nhiều triển lãm hội họa đã trưng bày những tác phẩm vẽ theo bút pháp giảm thiểu trên nền của âm nhạc giảm thiểu. Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa âm nhạc giảm thiểu và nghệ thuật thị giác khi kết hợp với nhau, thì số lượng công chúng yêu thích nó đã tăng theo cấp số nhân. Hai nhạc sĩ được nhắc đến nhiều nhất trong mối liên hệ này là P.Glass và A.Part.

Kỹ thuật nhắc lại cũng trở thành một thủ pháp sáng tác được rất nhiều loại nhạc phổ thông mang tính chất quần chúng sử dụng, thí dụ như nhạc pop của Andy Warthol.

Cho dù bị chỉ trích từ nhiều nhà phê bình, nhưng âm nhạc giảm thiểu đã có một chỗ đứng khá vững chắc trong lòng công chúng và gặt hái được nhiều thành công cho đến những năm 80, 90 TK XX, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Tags: ,