Viễn cảnh nào cho thế giới hậu khủng hoảng COVID-19?

Giống như tất cả các cuộc khủng hoảng khác, dịch bệnh COVID-19 có thể làm thay đổi bộ mặt của thế giới, tạo ra những quy tắc và trật tự mới.

Viễn cảnh nào cho thế giới hậu khủng hoảng COVID-19?

Đại dịch COVID-19 đã và đang gây ra cuộc khủng hoảng y tế nghiêm trọng trên toàn cầu. Tuy nhiên ảnh hưởng của dịch bệnh cũng lan rộng ra nhiều lĩnh vực khác. Một số nhà phân tích cho rằng, tác động của COVID-19 đối với nền kinh tế, chính trị trên thế giới có thể nghiêm trọng và sâu rộng hơn so với tác động của cuộc Đại khủng hoảng xảy ra vào những năm 1930.

Giống như tất cả các cuộc khủng hoảng khác, dịch bệnh COVID-19 có thể làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Một hệ thống quy tắc và trật tự mới có thể xuất hiện, hoặc hệ thống hiện tại có thể được sửa đổi vì hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của dịch bệnh.

Những khu vực nào bị tổn hại nhiều nhất?

Đại dịch COVID-19 sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với các cộng đồng dân cư nghèo và dễ bị tổn thương tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Tại Mỹ, hơn 60% dân số trưởng thành bị mắc một căn bệnh mãn tính. Cứ 8 người Mỹ thì có 1 người sống dưới mức nghèo khổ. Hơn 3/4 trong số này sống dựa vào tiền lương và hơn 44 triệu người không có bảo hiểm y tế.

Thách thức thậm chí còn lớn hơn tại khu vực Châu Mỹ Latin, châu Phi và Nam Á, những nơi có hệ thống y tế yếu hơn và năng lực ứng phó của các chính phủ có hạn. Suy giảm kinh tế do COVID-19 sẽ diễn ra ở nhiều nơi. Mức độ nghiêm trọng phụ thuộc vào việc đại dịch kéo dài trong bao lâu cũng như phản ứng ở cả cấp độ quốc gia lẫn quốc tế của các chính phủ. Nhưng ngay cả với kịch bản khả quan nhất, thì tác động của dịch bệnh vẫn sẽ vượt xa cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 về quy mô và mức độ nghiêm trọng. Ước tính thiệt hại có thể vượt quá 9.000 tỷ USD, tương đương hơn 10% GDP toàn cầu.

Ở những cộng đồng nghèo, nơi nhiều người dân phải chung sống trong những căn nhà chật hẹp với nguồn sống chủ yếu phụ thuộc vào công việc lao động hàng ngày, lời kêu gọi giãn cách xã hội sẽ rất khó được thực hiện. Khi người dân mất đi nguồn thu nhập, tình trạng vô gia cư và nạn đói sẽ gia tăng nhanh chóng.

Tại Mỹ, đã có 3,3 triệu người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp, trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp trên khắp châu Âu cũng đạt mức cao kỷ lục. Chuỗi cung ứng bị phá vỡ khi các nhà máy phải đóng cửa và công nhân bị cách ly, người tiêu dùng không thể mua sắm hay tham gia các hoạt động xã hội. Chính sách tiền tệ gần như bị tê liệt khi nhiều nước hạ lãi suất xuống gần mức 0. Khái niệm đảm bảo thu nhập cơ bản nghe có vẻ phi thực tế cách đây 1 tháng, giờ đã nằm ở trung tâm trong chương trình nghị sự của các chính phủ.

Khi số ca mắc COVID-19 tăng vọt, hầu hết các nhà lãnh đạo trên thế giới đều nhận thức được cái giá phải trả về mặt kinh tế và con người. Theo kịch bản xấu nhất do Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ đưa ra, khoảng 160 triệu đến 210 triệu người Mỹ sẽ bị mắc COVID-19 cho đến tháng 12/2020 và khoảng 1,7 triệu người có thể tử vong. Các nhà nghiên cứu của Đại học Havard ước tính có khoảng 20% đến 60% dân số trên toàn cầu có thể bị nhiễm virus SARS-CoV-2 và con số tử vong vào khoảng từ 14 đến 42 triệu người.

Khi nào dịch bệnh chấm dứt?

Câu hỏi phổ biến hiện nay là “Khi nào dịch bệnh sẽ chấm dứt?”. Câu trả lời phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như 1 bệnh nhân có thể mắc bệnh nhiều lần hay không, các nhà khoa học trên thế giới có thể sản xuất vaccine nhanh như thế nào, lợi ích và cái giá phải trả của biện pháp phong tỏa kéo dài, cùng việc các quốc gia có đủ khả năng ứng phó với dịch bệnh, cả về mặt chính trị lẫn mặt kinh tế, hay không.

Có ý kiến cho rằng, đại dịch sẽ kết thúc khi tạo ra được cái gọi là miễn dịch cộng đồng. Miễn dịch cộng đồng chỉ tình trạng một cộng đồng được bảo vệ gián tiếp trước nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh. Miễn dịch cộng đồng xuất hiện khi một tỉ lệ lớn người dân trong cộng đồng ấy có miễn dịch với một số bệnh truyền nhiễm, từ đó họ trở thành “lá chắn sống” cho những người chưa bị nhiễm.

Có 2 con đường dẫn tới viễn cảnh này. Thứ nhất là tiêm chủng. Các nhà nghiên cứu sẽ phải phát triển 1 loại vaccine an toàn và hiệu quả chống lại virus SARS-CoV-2 và các cơ quan y tế sẽ phải tiêm vaccine này cho một số lượng người vừa đủ. Con đường thứ 2 nghiệt ngã hơn. Kịch bản này có thể xảy ra sau khi phần lớn cộng đồng bị mắc bệnh và phát triển các kháng thể chống virus. Tuy nhiên, điều đó sẽ khiến số ca mắc và số ca tử vong tăng vọt một cách không thể kiểm soát.

Hiện tại, hàng chục công ty và các trường đại học trên thế giới đang nỗ lực tìm kiếm vaccine. Trong cuộc đua này, nhiều bên đã đặt mục tiêu cung cấp vaccine trong khoảng từ 12 đến 18 tháng, nhưng giới chuyên gia cho rằng đây là mục tiêu đầy tham vọng bởi phát triển vaccine thường là một quá trình lâu dài và phức tạp, mất nhiều năm ròng để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả. Nếu không có vaccine phòng ngừa, COVID-19 sẽ là bài toán nan giải trong nhiều năm sau đó.

Trong thời gian chờ đợi, nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp làm giảm đáng kể sự lây lan của dịch bệnh COVID-19 như đóng cửa các doanh nghiệp và trường học, cấm các cuộc tụ tập và buộc người dân phải ở trong nhà. Mục đích là ngăn chặn một đợt bùng phát lớn có thể khiến hệ thống y tế quá tải, dẫn đến những ca tử vong không đáng có. Điều này cũng giúp cơ quan chức năng và các nhà cung cấp dịch vụ y tế tăng cường năng lực xét nghiệm, theo dõi liên lạc của những người mắc bệnh, mở rộng các cơ sở y tế, thành lập thêm nhiều đơn vị chăm sóc đặc biệt.

Theo VOV

Tags: