Vê nguy cơ mất an ninh nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long

Những năm gần đây, vấn đề an ninh nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang được quan tâm đặc biệt. Từ vùng nông nghiệp trù phú bậc nhất thế giới định hình bởi nguồn tài nguyên nước phong phú, ĐBSCL đang đứng trước nguy cơ mất an ninh lương thực và khó đạt các mục tiêu phát triển bền vững do nguồn nước bị suy giảm cả về lượng lẫn chất.

Vê nguy cơ mất an ninh nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long

Tác giả: TS Nguyễn Minh Quang, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Quốc tế Nghiên cứu Xã hội (ISS), Đại học Eramus Rotterdam (Hà Lan).

An ninh nguồn nước theo quan điểm quốc tế và thực trạng ở ĐBSCL

Theo Ủy ban về nước của Liên hợp quốc (UN-Water), an ninh nguồn nước không đơn thuần là khả năng tiếp cận được nguồn nước của một cộng đồng dân cư. Thay vào đó, an ninh nguồn nước của một quốc gia, một khu vực chỉ được đảm bảo khi cộng đồng dân cư có đủ nguồn nước với chất lượng cần thiết cho phép “duy trì sinh kế, phục vụ nhu cầu cá nhân, phát triển kinh tế và bảo tồn các hệ sinh thái” [1, 2]. Nói cách khác, an ninh nguồn nước không chỉ ở việc chúng ta có thể khai thác được bao nhiêu nước mà còn ở việc chất lượng nguồn nước đó có đảm bảo cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, vận chuyển hàng hải và bảo tồn sinh thái hay không?

An ninh nguồn nước là vấn đề có liên hệ mật thiết đến nhiều khía cạnh xã hội, từ nhân quyền (quyền được đảm bảo các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống và sự thịnh vượng của con người), sản xuất lương thực – thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái cho đến khía cạnh ổn định chính trị – xã hội. Vì vậy, đảm bảo an ninh nguồn nước chính là nhiệm vụ trọng tâm, cho phép mỗi quốc gia đạt được những mục tiêu an ninh lớn hơn về lương thực, phát triển bền vững và trật tự xã hội. Đảm bảo an ninh nguồn nước còn là một mục tiêu quan trọng trong 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc.

Theo cách tiếp cận này, an ninh nước ở ĐBSCL có tính nhạy cảm cao bởi nguồn nước ngọt lệ thuộc hoàn toàn từ bên ngoài (sông Mekong và nước mưa). Tác động từ biến đổi khí hậu cũng gây nhiều áp lực lên khả năng tiếp cận nguồn nước của cộng đồng lẫn các hệ sinh thái [3]. Trên thực tế, ĐBSCL được đánh giá là khu vực giàu có về tài nguyên nước, cả nước mặn lẫn nước ngọt. Tài nguyên nước ở vùng đồng bằng châu thổ này khá đa dạng, gồm nước mặt (sông, hồ, biển), nước ngầm và nước mưa, với trữ lượng rất dồi dào và chất lượng đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên.

Tổng hợp số liệu thống kê từ các địa phương cho thấy, ĐBSCL có trữ lượng nước dưới đất cao bậc nhất nước ta với mức 10-13 tỷ m3/năm, trong đó trữ lượng khai thác cấp A khoảng 110-120 ngàn m3/ngày đêm, cấp B khoảng 300-350 ngàn m3/ngày đêm và cấp C là trên 600 ngàn m3/ngày đêm. Tài nguyên nước mặt rất phong phú nhờ nguồn nước từ sông Mekong đổ về liên tục, mùa mưa kéo dài 4-6 tháng và mạng lưới sông rạch, kênh đào dày đặc. Các nguồn cung từ sông Mekong và nước mưa theo mùa không chỉ đáp ứng 70-80% nhu cầu sinh hoạt của hơn 10 triệu dân trong vùng mà còn đóng vai trò quyết định trong sản xuất (thau chua, rửa mặn) và bảo tồn các hệ sinh thái trọng yếu.

Lợi thế này bắt đầu đảo ngược từ giữa cuối thập niên 2000 trở lại đây. Số liệu từ Hội địa chất thủy văn cho thấy mực nước ngầm ở ĐBSCL đã sụt giảm khoảng 15m đến năm 2015 và tiếp tục sụt giảm với tốc độ trung bình 20-40 cm/năm [4]. Ở nhiều tỉnh ven biển như Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau, nông dân buộc phải khoan giếng mới với độ sâu 150-180 m (so với trung bình 80-100 m như trước đây) và đầu tư máy bơm (hoặc máy nén khí) công suất lớn mới có thể khai thác được nước ngầm.

Tài nguyên nước mặt cũng biến đổi do ô nhiễm. Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia dẫn kết quả quan trắc từ Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ cho thấy: “Nồng độ vi khuẩn E.coli tại các sông ngòi, kênh rạch ở ĐBSCL đã vượt quá mức cho phép 2-5 lần; nồng độ BOD và COD vượt giới hạn cho phép 1-3 lần; nồng độ ammoniac và một số độc chất phát sinh từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp vượt 5-10 lần tiêu chuẩn cho phép”. Ở một số vùng nước lợ ven biển ở Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang, ô nhiễm nguồn nước cũng khiến dịch bệnh xuất hiện liên tục cho nuôi trồng thủy hải sản, gây thiệt hại với quy mô hàng trăm nghìn hecta mỗi năm.

Đáng ngại hơn, nguồn cung nước trọng yếu từ sông Mekong lại bị thay đổi hoàn toàn những năm gần đây do khai thác thủy điện ở thượng nguồn. Số liệu từ Ủy hội sông Mekong cho thấy cuối thập niên 1990, lượng phù sa về đến ĐBSCL vẫn rất cao, đạt 140-160 triệu tấn/năm, nhưng đến đầu thập niên 2010 chỉ còn lại 70-75 triệu tấn/năm và dự báo sẽ còn tiếp tục giảm mạnh trong những năm tới. Thiếu hụt phù sa từ sông Mekong đổ về đã dẫn đến sạt lở nghiêm trọng trên hầu hết các sông rạch, cửa sông và bờ biển khắp đồng bằng với tổng chiều dài gần 1.200 km (1) .

Các yếu tố uy hiếp an ninh nguồn nước ở ĐBSCL

Từ quan điểm nghiên cứu an ninh môi trường kết hợp diễn biến thực tế ở ĐBSCL có thể thấy tình trạng mất an ninh nguồn nước gây ra bởi ba yếu tố trực tiếp gồm: biến đổi khí hậu, phát triển thủy điện từ thượng nguồn và các nguyên nhân nội tại. Các nguyên nhân này có nguồn gốc và mức độ tác động khác nhau, tuy nhiên tác động cộng hưởng sẽ tạo ra hệ lụy nghiêm trọng. Điều này lý giải tại sao vùng đất từng được mệnh danh là “thế giới sông nước” hay cái nôi của “văn minh sông nước – miệt vườn”  nhưng chỉ trong vài năm trở lại đây đã mau chóng phải đối mặt với thách thức mất an ninh nguồn nước một cách báo động.

Diễn biến bất thường của biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu đang tạo ra những thay đổi đáng kể về thời tiết và môi trường ở ĐBSCL. Mùa mưa diễn biến không còn theo quy luật, kéo theo sự mất cân đối về phân bố lượng mưa và trữ lượng nước mưa hàng năm. Theo chu kỳ mỗi 4 năm, ảnh hưởng của hiệu ứng El Nino thường xuất hiện khiến phần lớn vùng ĐBSCL chìm trong “cơn khát” do hạn hán kéo dài. Thực tế này khiến cho việc phục hồi các bể nước ngầm trở nên khó khăn.

Trong khi đó, sự gia tăng mực nước biển cho phép nước mặn xâm lấn ngày một vào sâu trong nội địa, nhất là vào thời điểm mùa khô. Kết quả là nguồn nước ngầm và nước mặt ở các sông, hồ sẽ không tránh khỏi bị nhiễm mặn và lan tỏa ra phạm vi xung quanh. Chẳng hạn, vào thời điểm hạn lịch sử năm 2016, nước mặn đã mau chóng xâm nhập vào tận các xã thuần ngọt ở Trần Văn Thời (Cà Mau) và Chợ Lách (Bến Tre). Do không nắm được diễn biến này, nhiều hộ dân theo thói quen đã lấy nước từ các kênh rạch để tưới tiêu dẫn đến thiệt hại trên diện rộng.

Sự phát triển của các đập thủy điện phía thượng nguồn

Đập thủy điện, các hồ chứa nhân tạo và các dự án chuyển nước trên dòng chính sông Mekong liên tục được triển khai trong hai thập kỷ trở lại đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng mất an ninh nguồn nước ở ĐBSCL. Các dự án này không chỉ khiến lưu lượng nước ở hạ lưu sông Mekong bị biến động, mà đáng lo ngại hơn là chất lượng của nguồn nước cũng không đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo sinh kế, phát triển và bảo tồn sinh thái. Cụ thể, lượng phù sa sông Mekong liên tục bị giữ lại khi đi qua các bậc thang thủy điện. Theo dự báo, nếu cả 9 con đập trên dòng chính thuộc lãnh thổ Lào tiếp tục được triển khai, tổng lượng phù sa vốn có của sông Mekong khi về đến ĐBSCL giảm chỉ còn 5-7% (tương đương 10-13 triệu tấn/năm). Lượng phù sa này rõ ràng không đáng là bao so với nhu cầu tối thiểu 120-130 triệu tấn/năm để làm màu mỡ các cánh đồng và bồi đắp, duy trì hình dạng bờ biển ở ĐBSCL. Là nước cuối nguồn sông Mekong, Việt Nam sẽ phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng nhất: sản lượng đánh bắt ngư nghiệp giảm từ 340.000 tấn xuống còn 60.000 tấn/năm và mức tổn thất kinh tế của Việt Nam từ thất thoát phù sa là khoảng 120-205 triệu USD/năm khi Lào xây dựng 6 hoặc 9 đập thủy điện.

Quản lý nguồn nước không hiệu quả

Các nghiên cứu thực địa gần đây của David Brown (2016), James Borton (2016) và Nguyễn Minh Quang (2017) đã chỉ ra rằng suy giảm an ninh nguồn nước ở ĐBSCL một phần lớn là do chính những yếu tố nội tại gây ra. Điều đó làm nổi bật sự thiếu hụt chiến lược quản lý nguồn nước và quy hoạch công nghiệp thiếu bền vững trong vùng.

Tính đến năm 2018, ĐBSCL có gần 50.000 ha đất nông nghiệp (được cho là kém hiệu quả) chuyển đổi thành khoảng 80 khu công nghiệp và hơn 210 điểm công nghiệp. Tuy nhiên, sau một thời gian “trải thảm đỏ” chạy đua công nghiệp hóa, mới chỉ có khoảng 1.000 ha diện tích các khu/điểm công nghiệp được đầu tư thực chất. Ngoài sự lãng phí lớn về tài nguyên đất, việc cho phép đầu tư vào các ngành công nghiệp phát thải ô nhiễm cao như nhiệt điện than, sản xuất – tái chế giấy, vật liệu xây dựng, rượu bia… ở ĐBSCL đã gây nhiều tranh cãi và lo ngại về khả năng ĐBSCL có thể trở thành “điểm nóng môi trường” tiếp theo ở Việt Nam [5].

Bên cạnh đó, ô nhiễm trong nông nghiệp cũng đang ở mức báo động. Tác động tiêu cực từ hệ thống đê bao ngăn lũ cùng với nỗ lực tăng sản lượng nông sản đã khiến đất đai bị thoái hóa mau chóng. Để duy trì sản lượng lúa, nông dân bắt đầu lạm dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trên khắp các cánh đồng. Ở những vùng chăn nuôi và nuôi thủy hải sản, ô nhiễm nguồn nước trở nên trầm trọng do chất thải được xả trực tiếp ra các sông rạch, đe dọa các hệ thủy sinh và môi trường nông thôn. Thống kê cho thấy ĐBSCL có khoảng 2,7 triệu hộ chăn nuôi lợn, nhưng chỉ khoảng 2,8% có hệ thống biogas đạt chuẩn. Ở các vùng nuôi cá như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long và Hậu Giang, mỗi năm cung cấp khoảng 6 triệu tấn cá, tương đương với khoảng 24 triệu tấn thức ăn được sử dụng. Trong đó, chỉ 4,8 triệu tấn được hấp thụ, phần lớn lượng thức ăn còn lại hòa tan vào nguồn nước trước khi được xả thẳng ra sông cùng với khoảng 30 triệu tấn chất thải từ ao nuôi [6].

Ở các khu vực chuyên canh tôm hoặc luân canh lúa – tôm từ Bến Tre kéo dài đến Kiên Giang, nhiễm mặn và thiết hụt nước mưa để cải tạo ao nuôi không chỉ khiến mô hình lúa – tôm bị thất bại mà còn làm cho hệ sinh thái địa phương bị biến đổi. Trong bối cảnh đó, tận thu nguồn nước ngầm phục vụ sản xuất và sinh hoạt là lựa chọn không tránh khỏi. Chỉ tính riêng ở Cà Mau, tổng số giếng khoan được cấp phép lên đến gần 109.000 với tổng công suất khai thác 370-400 ngàn m3/ngày đêm (trung bình 21-23 giếng/km2). Tuy nhiên, số lượng giếng khoan tự phát trong dân ở vùng nông thôn còn rất lớn, chưa thống kê được. Khi nguồn nước ở các bãi giếng bị hút cạn kiệt, người dân và doanh nghiệp sẽ chọn lựa khoan giếng mới, để lại trên mặt đất những lỗ khoan chi chít càng khiến cho các nguồn ô nhiễm và nước mặn dễ dàng thấm sâu vào các tầng nước trong lòng đất.

Những hệ lụy và giải pháp nào cho an ninh nguồn nước ĐBSCL?

Tất cả các nguồn tài nguyên nước ở ĐBSCL, từ nước ngọt đến nước mặn, đều có giá trị rất lớn cho sự sống và sinh kế của gần 20 triệu dân cũng như các hệ sinh thái trọng yếu của khu vực. Vì vậy, nguồn nước bị ô nhiễm và thiếu thốn ngày càng tăng như hiện nay sẽ dẫn đến các nguy cơ mất an ninh lương thực, bất ổn xã hội và kéo giảm tăng trưởng kinh tế của mỗi địa phương.

Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng thực trạng mất an ninh nguồn nước sẽ tạo ra nhiều hệ lụy tiêu cực như di cư để chuyển đổi sinh kế và tiếp cận nguồn nước tốt hơn; mất an ninh lương thực; xung đột lợi ích kinh tế giữa các bên (giữa các nhà máy xả thải gây ô nhiễm với cộng đồng lệ thuộc vào nguồn nước sông)… Ngoài ra, suy giảm nguồn nước ngầm và thiếu hụt lượng phù sa từ sông Mekong còn gây ra nhiều hệ lụy trực tiếp về tự nhiên. Trong đó, sạt lở, gia tăng sụt lún nền đất quy mô lớn, thu hẹp các hệ sinh thái cửa sông và ven biển… là những hệ lụy mà ĐBSCL đang chứng kiến.

Vấn đề quản trị nước và giải pháp quản lý nguồn nước vùng ĐBSCL cũng được quan tâm thời gian gần đây. Tuy nhiên, an ninh nước là vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng. Do đó, việc quan trọng hiện nay là phải xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu tổng thể về các giải pháp quản trị nước có tầm nhìn dài hạn và tính thích ứng cao. Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ đã cho thấy quyết tâm chính trị và định hướng chính sách cụ thể trong vấn đề phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, trong khi hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 120, cần thiết phải sự nhìn nhận vai trò trung tâm của an ninh nước trong hoạch định chính sách bởi, như đã đề cập, các mục tiêu phát triển bền vững chỉ đạt được khi an ninh nước được đảm bảo.

Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UN-ESCAP) đã chỉ ra ba nhóm vấn đề ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để giải quyết các bất ổn an ninh nước. Một là, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn nước sạch cho các cộng đồng, nhất là các nhóm đối tượng dễ tổn thương và người dân vùng nông thôn. Hai là, quản lý và xử lý tốt nguồn nước thải từ hoạt động công nghiệp lẫn trong sản xuất nông nghiệp. Thống kê của UN-ESCAP cho thấy 80-90% lượng nước thải ở các nước công nghiệp hóa không được xử lý đúng quy chuẩn trước khi thải ra môi trường. Giải pháp cho vấn đề này là cần xem nước thải là một loại tài nguyên tái sử dụng. Bùng nổ công nghệ và cải tiến trong xử lý nước thải tập trung và phi tập trung cũng đang là cơ hội để giảm chi phí cho “tái chế” nước thải ở các nước nghèo. Ba là, cần thay đổi chiến lược và tiếp cận trong quản lý tài nguyên nước theo hướng thích ứng và chủ động trong bối cảnh bất ổn môi trường ngày nay. Bảo tồn nguồn nước ở các “túi nước sinh học” vùng ngập nước, nâng cao năng lực sử dụng hiệu quả nguồn nước trong cộng đồng và hoạt động kinh tế, xây dựng hệ thống thu gom nước mưa ở vùng đô thị… là những giải pháp thích ứng có hiệu quả trong quản trị nước. Ngoài ra, với đặc thù vị thế hạ nguồn của ĐBSCL, Việt Nam cần nâng cao vai trò trong các cơ chế hợp tác đa phương về dòng chảy đa quốc gia ở lưu vực sông Mekong. Trong khi kêu gọi cơ chế quản lý và khai thác có trách nhiệm nguồn nước sông Mekong, Việt Nam cần thúc đẩy các đối thoại chính sách cấp cao về an ninh nước giữa các quốc gia trong lưu vực.

————————

Chú thích:

(1): Trong đó, sạt lở bờ sông khoảng 600 km trên các con sông thuộc nhóm sông Tiền, sông Hậu; gần 200 km sạt lở nhóm sông độc lập với sông Tiền, sông Hậu (kênh đào nội bộ Tứ Giác Long Xuyên, U Minh Thượng – U Minh Hạ và các sông rạch theo chế độ bán nhật triều ở bán đảo Cà Mau); cùng gần 400 km sạt lở bờ biển.

————————

Tài liệu tham khảo:

[1] https://www.gwp.org/en/About/why/the-water-challenge/
[2] David Grey & Claudia W. Sadoff (2007), “Sink or Swim? Water security for growth and development”, Water Policy, 9(6), pp.545-571.
[3] https://www.qdnd.vn/…/tai-nguyen-nuoc-ngam-chua-duoc-quan-ly-khai-thac-hieu-qua
[4] World Bank (2008), Climate Change Water: South Asia’s Lifeline at Risk.
[5] Nguyen Minh Quang (2017), Vietnam’s next environmental hotspot, The Diplomat. https://thediplomat.com/2017/01/vietnams-next-environmental-hotspot.
[6] Nguyễn Minh Quang và cộng sự (2017), Biến đổi môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng năng lực thích ứng biến đổi môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ.

Theo VJST.VN

Tags: , , ,