⠀
Trận tử chiến đảo Thổ Chu tháng 5/1975
Trong hoàn cảnh vừa hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mới tiếp quản các tàu chiến, căn cứ hải quân của chế độ cũ, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần kiên quyết tiến công, thực hiện hàng loạt các trận đánh tái chiếm các đảo trên vùng biển Tây Nam, bước đầu làm thất bại âm mưu xâm lược của bè lũ diệt chủng Polpot – Khmer Đỏ.
Đảo Thổ Chu ngày nay.
Quần đảo Thổ Chu (tên hàng hải quốc tế là Poulo Panjang) gồm 8 đảo, chạy dài từ vĩ độ 09015B- 09023B, kinh độ 103028 Đ, trong đó đảo Thổ Chu lớn nhất, với diện tích khoảng 10km2; còn các đảo khác có diện tích 1km2như: Hòn Đứng, Hòn Nhạn, Hòn Keo, Hòn Ngựa, Hòn Khó, Hòn Từ, Hòn Cao Cát, Hòn Cát Bàn và Hòn Mô.
Cách Tây Nam Phú Quốc 55 hải lý, cách tây bắc mũi Cà Mau 85 hải lý, nằm gần đường hải biên quốc tế Bangkok – Kompong Som – Sài Gòn – Hồng Công nên được xem là một vị trí chiến lược quan trọng.
Đảo Thổ Chu có các đỉnh núi cao, phía đông có đỉnh cao 167m, phía tây bắc có cao điểm 143, Tây Nam có cao điểm 146; trên đảo có cây cối rậm rạp, nhiều cây to, gỗ quý. Ở đây chỉ có một con đường mòn lởm chởm đá nối liền bãi Ngư và bãi Giang, dài 1.800m, ngoài ra không có con đường nào khác, muốn đi lại từ Bắc xuống Nam phải dùng tàu thuyền
Bờ đảo phía Bắc có cây cối rậm rạp, nhiều núi đá chạy nhô ra. Tây Nam đảo có bãi Ngự là bãi lớn nhất, rộng khoảng 600m, vịnh nước có độ sâu thích hợp cho các loại tàu đổ bộ, tàu thuyền thường neo đậu ở đây để tránh gió mùa đông bắc. Bãi này là bến chính của đảo Thổ Chu. Đông Nam đảo có các bãi Giang, bãi Mun, Bãi Nhất. Bãi Giang là bãi cát, dài 200m, tương đối kín đáo, nước trong vịnh sâu, yên sóng, neo đậu được 6-8 tàu loại nhỏ từ 200 tấn trở xuống, các tàu loại vừa đổ bộ thuận lợi. Bãi Mun có chiều dài khoảng 300m, sát với bãi Giang, nước sâu, tàu có thể neo đậu được nhưng đáy có vụng đá. Bãi Nhất dài hơn 100m, có nhiều núi đá, tàu không vào được.
Dưới thời quản lý của chính quyền Sài Gòn (1954-1975), quần đảo Thổ Chu thuộc tỉnh An Xuyên, trên đảo có khoảng 600 dân, bao gồm 200 gia đình, tuyệt đại đa số là người Kinh gốc Rạch Giá, có một số ở khu 5 di tản vào thời kỳ Mậu Thân 1968; có 4 gia đình gốc Khmer. Dân sống tập trung chủ yếu ở bãi Ngự, nghề chính là đánh cá và làm nương rẫy. Tinh thần cách mạng của nhân dân nơi đây tương đối tốt, mặc dù bị địch kìm kẹp gắt gao, tuy vậy ta vẫn chưa có cơ sở cách mạng tại đây. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, quân VNCH đóng trên đảo chạy về đất liền hoặc lên tàu, thuyền chạy ra nước ngoài. Ngày 6/5/1975, quân Polpot (Khmer Đỏ) đã đổ bộ lên bãi Dài thuộc quần đảo Phú Quốc nhưng bị ta đánh đuổi. Ngày 10/5/1975, chúng đã dùng tàu LCM và 3 tàu PCE đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Chu. Sau đó, địch dồn dân ta lên tàu đưa về đất liền Campuchia, có một số người bị giết ngay trên biển. 500 người bị đưa về Campuchia và tàn sát toàn bộ.
Địch đưa người của chúng lên làm xã trưởng, xã phó nhằm cai quản đảo. Lực lượng địch chiếm cứ đảo có một tiểu đoàn được bố trí: một trung đội ở bãi Ngự, hai trung đội ở bãi Cao và Hòn Tử, bãi Mun và bãi Giang: một trung đội. Trong quá trình chiếm đóng, địch đã ba lần đổ quân tăng cường và bổ sung vũ khí.
Một số người dân trên đảo dùng xuồng máy chạy trốn vào bờ và báo tin cho chính quyền. Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định dùng sức mạnh quân sự để tái chiếm lại đảo Thổ Chu.
Lúc bấy giờ, lực lượng hải quân ta còn gặp rất nhiều khó khăn. Tám ngày sau khi Khmer Đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chu, căn cứ hải quân An Thới, Phú Quốc mới được Quân khu 9 bàn giao cho Quân chủng Hải quân. Nhưng với quyết tâm bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, Đoàn Hải quân Phú Quốc vẫn dốc toàn bộ lực lượng, phối hợp cùng bộ binh của Quân khu 9 tiến hành giành lại đảo Thổ Chu, trả nợ máu cho hàng trăm đồng bào bị quân Khmer Đỏ tàn sát.
Các tàu thuyền của chế độ cũ được nhanh chóng sửa chữa để sẵn sàng tham gia chiến đấu. Cũng trong ngày 18/5/1975, hội nghị quân sự Phú Quốc được tiến hành, hạ quyết tâm giành lại đảo Thổ Chu bằng sức mạnh quân sự.
Quần đảo Thổ Chu cách bờ trên 200km, gồm 8 đảo, trong đó Thổ Chu là đảo lớn nhất, rộng khoảng 10km2, các đảo còn lại có diện tích khoảng 1km2.
Lúc bấy giờ, thông tin về lực lượng địch còn rất sơ lược, chủ yếu thông qua những người dân trốn thoát về cho biết: Trên đảo Thổ Chu có khoảng 1 tiểu đoàn địch được tăng cường hỏa lực mạnh, có 3 trọng liên 12,7mm, 3 súng cối 60, 81 và 82mm, 1 khẩu ĐKZ 75mm và 1 khẩu ĐKZ 106,7mm.
Ở bãi Ngự phía tây nam đảo Thổ Chu có 1 trung đội địch, ở bãi Mun và bãi Giang phía đông nam đảo có 1 trung đội, ở bãi Cao và Hòn Từ có 2 trung đội.
19h35 phút ngày 23/5/1975, lực lượng tham gia chiến đấu tái chiếm đảo Thổ Chu đã tập hợp đội hình ở Bãi Cao Cát – chuẩn bị xuất phát đổ bộ. Hải quân Nhân dân Việt Nam tung vào trận 2 tàu vận tải (T-643 và T-657) của Đoàn 125, chở theo một phân đội đặc công 39 người, cùng với đó là 3 tàu tuần tiễu PCF (lượng giãn nước 16 tấn, trang bị trọng liên 12,7mm và súng cối 81mm).
Lực lượng đổ bộ là 2 đại đội (140 người) của tiểu đoàn bộ binh 410, trung đoàn 95, Quân khu 9, cùng 1 trung đội địa phương (25 người) của đảo Phú Quốc và 11 cán bộ và dân địa phương đi cùng để dẫn đường. Lực lượng này được chở trên hai tàu đổ bộ cơ giới LCM-8 (lượng giãn nước 113 tấn, trang bị 2 trọng liên 12,7mm) của Rạch Giá. Do các tàu PCF, tàu LCM-8 mới tiếp thu được của chế độ cũ, nên ta phải sử dụng lái tàu và pháo thủ của Hải quân VNCH trước đây.
Trên mỗi tàu tuần tiễu PCF có 4 lính chế độ cũ và 3 chiến sĩ đặc công đi kèm. Theo kế hoạch, quân ta sẽ bí mật đổ bộ lên đảo, sau đó đồng loạt nổ súng tấn công các vị trí phòng ngự của quân Khmer Đỏ, dưới sự yểm hộ của hỏa lực trên tàu chiến.
21h15 phút, tàu vận tải T-643 bắt đầu tiến vào bờ biển phía đông bắc đảo Thổ Chu, đưa phân đội đặc công lên chiếm bãi đổ bộ. 15 phút sau, đặc công chiếm bãi đổ bộ thành công, 2 tàu đổ bộ LCM-8 bắt đầu đưa bộ binh tiến vào. Sau 45 phút, các phân đội bộ binh đổ bộ xong. Tuân thủ kế hoạch đã được vạch ra, phân đội đặc công sẽ tiến công bãi Mun, trung đội địa phương Phú Quốc sẽ chiếm bãi Giang, còn tiểu đoàn 410 sẽ giải quyết hai mục tiêu là bãi Ngự và bãi Nhất.
3 giờ 45 phút sáng 24/5/1975, Sở Chỉ huy lệnh cho 2 tàu đổ bộ LCM-8 ở lại cảnh giới phía bắc đảo Thổ Chu, cách bãi đổ bộ chừng 1 hải lí. 3 tàu tuần tiễu PCF vòng qua hướng tây, dừng lại ở Hòn Khô, sẵn sàng chi viện cho mũi tiến công bãi Ngự. 2 tàu vận tải quân sự vòng qua hòn Cao Cát sang phía đông nam.
5h15 sáng 24/5/1975, tiểu đoàn 410 nổ súng đánh chiếm bãi Ngự. Các mũi khác cũng đồng loạt nổ súng theo hợp đồng. Ba tàu tuần tiễu PCF tiến vào trước bãi Ngự, dùng hỏa lực trên tàu chi viện cho bộ binh tiến công địch. Từ trên bờ, quân Khmer Đỏ bắn trả tàu hải quân ta bằng súng cối và ĐKZ, song hỏa lực không mạnh.
Ngay từ những phút đầu trận đánh, phân đội đặc công đã làm chủ bãi Mun. Đến 7h sáng, trung đội địa phương đảo Phú Quốc cũng đã làm chủ được một phần bãi Đông, buộc địch phải co cụm trong công sự chống trả.
7h15 sáng, hai tàu LCM-8 cảnh giới ở phía bắc đảo phát hiện thấy một tàu lạ tiến tới. Lập tức, 3 tàu tuần tiễu PCF được lệnh vòng lên phía bắc để kiểm tra, nắm tình hình, sẵn sàng đánh địch. Từ hướng đông nam, tàu T-643 cũng chở theo một tổ đặc công đến chi viện. 3 tàu PCF tăng tốc tiếp cận và báo cáo: Trên tàu lạ có nhiều người, có vũ khí và treo cờ đỏ. Hải quân ta lập tức tổ chức vây bắt. Dưới sự yểm hộ của đồng đội, tàu T-643 và một tàu LCM-8 cập sát tàu lạ, bắt sống tàu cùng 40 tên địch. Tàu T-657 tiến về bãi Đông cũng phát hiện một thuyền máy của địch đi từ hòn Từ sang, lập tức nổ súng tiêu diệt. Đến 8h30 sáng, quân ta làm chủ bãi Đông. Nhưng cuộc chiến đấu vẫn diễn ra rất quyết liệt ở bãi Ngự trong suốt buổi sáng 24/5/1975. Quân địch dựa vào hai điểm tựa ở phía bắc và phía đông nam bãi Ngự để chống trả bộ đội ta.
14h30 chiều, tàu T-643 và 3 tàu tuần tiễu PCF bắt đầu nổ súng chi viện hỏa lực cho tiểu đoàn 410 trên bãi Ngự. Quân địch vẫn ngoan cố bắn trả tàu ta bằng súng cối và ĐKZ. Đến 16h chiều, để nhanh chóng giải quyết trận đánh, Sở Chỉ huy tăng viện thêm cho lực lượng tái chiếm đảo 2 tàu tuần tiễu K-62 (lượng giãn nước 135 tấn, trang bị 2 pháo 37mm 2 nòng và 2 pháo 25mm 2 nòng). Tàu T-657 lập tức đi đón hai tàu tuần tiễu.
9 h sáng 25/5/1975, quân ta tiếp tục tấn công bãi Ngự. Được tăng cường thêm hai tàu tuẫn tiễu, hỏa lực yểm hộ bộ binh mạnh lên rõ rệt. Hải quân ta kiên quyết dùng pháo 37mm khống chế cao điểm đông nam bãi Ngự, và dùng 25mm bắn bộ binh địch. Kinh hoàng trước hỏa lực của tàu ta, quân Khmer Đỏ nhanh chóng tan rã. Điểm tựa phía bắc bãi Ngự bị chiếm, hơn 100 tên địch ra hàng. Đến 12h trưa, điểm tựa phía đông nam cũng bị hạ, 56 tên địch ra hàng. 18 tên khác chạy ra bãi Mun cũng đã phải đầu hàng bộ đội đặc công ta ở đây. Quân ta giành lại đảo Thổ Chu, và sau đó triển khai đánh chiếm nốt các đảo còn lại. Đến ngày 27/5/1975, trận đánh kết thúc.
Như vậy, sau 3 ngày chiến đấu, lực lượng hỗn hợp của Hải quân Nhân dân Việt Nam và Quân khu 9 đã loại khỏi vòng chiến 1 tiểu đoàn tăng cường của địch, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và trang thiết bị. Phía ta hi sinh 4 người, bị thương 14 người.
Trong hoàn cảnh vừa hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mới tiếp quản các tàu chiến, căn cứ hải quân của chế độ cũ, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần kiên quyết tiến công, thực hiện hàng loạt các trận đánh tái chiếm các đảo trên vùng biển Tây Nam, bước đầu làm thất bại âm mưu xâm lược của bè lũ diệt chủng Polpot – Khmer Đỏ.
Theo QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN / INFONET
Tags: Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tội ác lịch sử, Việt Nam sau thống nhất 1975-1976, Khmer Đỏ