Sự phát triển của các loại chiến thuyền trong lịch sử Việt Nam

Địa bàn sinh sống chủ yếu của tổ tiên ta là ở những đồng bằng có sông ngòi, đầm hồ bao bọc, chia cắt. Vì vậy con người chỉ có thể hoạt động, đi lại trên một phạm vi rộng nhờ bè mảng, tàu thuyền.

Sự phát triển của các loại chiến thuyền trong lịch sử Việt Nam

Mô hinhf thuyền mông đồng (thuyền bọc đồng) niên đại thế kỷ 17, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Đây là loại thuyền nhỏ, linh hoạt được trang bị hỏa lực mạnh – từng được thủy quân các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng phổ biến.

Thuyền bè đã trở thành phương tiện cơ động chủ yếu cho các hoạt động dân sự cũng như hoạt động quân sự của ông cha ta. Dù là quân bộ hay quân thủy, đều phải dùng thuyền như phương tiện cơ động chính.

Thuyền chiến đã ra đời rất sớm trong lịch sử dân tộc ta có thể từ trước khi Nhà nước Văn Lang ra đời. Cho đến nay tư liệu về những chiếc thuyền chiến cổ nhất mà chúng ta biết đến được thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. Thuyền chiến là những chiếc thuyền độc mộc, loại cực lớn có thể dài trên 20m, chở hàng chục chiến binh.. Những cánh buồm có thể được đan bằng lá dứa dại phát huy tác dụng khi thuyền xuôi gió… Thuyền loại này được trang trí tương đối đẹp và ở mũi thuyền không bao giờ thiếu hình đầu một loài thú kỳ dị. Thông thường, chúng đều có một chèo ở đuôi, cũng có một số thuyền có chèo ở mũi. Dưới đáy thuyền thường thấy một hoặc hai tấm ván rẽ nước có tác dụng chống sóng và giữ thăng bằng cho thuyền.

Trên thuyền thường có thêm một số cọc phụ. Trang trí đẹp nhất thường là những cọc phụ ở phía đuôi, gần người điều khiển lái đuôi. Thuyền nào cũng có một vật như chiếc trống da ở giữa thuyền và một sạp lầu cao chừng 1,5 mét, đặt hơi chếch về phía đuôi thuyền, trên sạp lầu là một vị trí ổn định của một xạ thủ cung hoặc nỏ, dưới đó là nơi cất những đồ đồng quý. Phần lớn những chiến binh trên những thuyền chiến đó đang trong tư thế chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu. Những thủy quân Đông Sơn đều có vũ khí trong tay như giáo, rìu, lao, dao găm, mộc, cung nỏ (trừ những người chèo thuyền mà ta có thể đoán rằng đó là những lính chèo thuyền chuyên nghiệp và người đánh trống có lẽ là người chỉ huy nhịp chèo).

Những người cầm rìu thường đứng ở đầu mũi thuyền như thể sẵn sàng nhảy sang thuyền đối phương để đánh giáp lá cà. Một vài chiến binh được trang bị thêm ngọn lao có thể phi sang thuyền đối phương hoặc chiếc mộc che thân trong những trận giáp chiến. Một vài thủ lĩnh nào đó có thể có thêm lưỡi dao găm trên tay. Quân thủy được thể hiện trên trống đồng Đông Sơn có thể đang chiến đấu chống quân xâm lược, hay có nhiệm vụ áp tải những chiếc trống quý được đem đi trao đổi hoặc cũng có khi là báu vật mà Hùng Vương gửi tặng cho vua chúa một nước láng giềng nào đó, và họ luôn phải sẵn sàng chiến đấu chống giặc cướp.

Trong trận Bạch Đằng năm 938, loại thuyền chiến Mông đồng thường có 32 tay chèo và 25 lính chiến đấu đã phát huy tác dụng rất lớn. Loại thuyền này xuất hiện ở Việt Nam từ năm 807 – 809. Năm 931, tướng Dương Đình Nghệ đã sử dụng thuyền Mông đồng trong các trận thủy chiến chống quân Nam Hán xâm lược. Đến tận thế kỷ XIII, thuyền Mông đồng vẫn là loại thuyền chiến chủ yếu trong quân thủy nước ta. Đó là một loại thuyền chiến có chiều dài khoảng trên 20 mét, rộng gần 4 mét, vỏ bọc đồng để tăng độ bền và chống tên, đạn của đối phương. Thuyền Mông đồng vừa có khả năng hoạt động trong sông, vừa có khả năng hoạt động ngoài biển, chủ yếu ở vùng cửa biển Bạch Đằng và vùng biển Đông Bắc nước ta.

Thuyền chiến thời Lý có khả năng trọng tải và hành trình rất tốt. Những cuộc hành quân đánh Chiêm Thành, vượt biển sang chiến đấu ở các châu Khâm, Liêm… đã chứng tỏ điều đó. Thuyền chiến còn có khả năng chở voi vượt biển làm quà trong những lễ nghi ngoại giao hoặc cơ động quân bộ theo đường biển để tập kích đối phương. Thuyền chiến thời này ngoài Mông đồng còn có thuyền lầu (lâu thuyền) và thuyền mẫu tử.

Thuyền lầu gồm những tầng lầu cao (lâu) nên có lợi thế về chiều cao (có chiếc đến 27m), phát huy được hiệu quả quan sát, chỉ huy và vũ khí tầm xa; chứa được nhiều lính và ưu thế về vũ khí tầm xa như cung, nỏ. Thuyền lầu là một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai sàn (boong) chia tàu thành hai tầng: tầng trên giấu lính chiến đấu, tầng dưới chứa lính chèo thuyền với hàng chục tay chèo và hai người điều khiển một mái chèo. Ở đây, thuyền lầu gắn chặt với chiến thuật dùng cung nỏ trong đánh thủy, có thể chở được trên hai trăm người và lương thảo, khí giới, thực hiện tốt những chuyến vượt biển xa hàng ngàn kilômét. Thuyền lầu xuất hiện khá sớm ở Trung Quốc (năm 219TCN). Ở Việt Nam, năm 1205 (thời Lí) Đàm Dĩ Mông đã chế tạo thuyền lầu, sau đó các vua Trần cũng đã dùng thuyền lầu làm tướng phủ (Sở chỉ huy) trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.

Thuyền mẫu tử có cấu tạo hai thuyền lồng vào nhau và có thể tách rời nhau, 4 mái chèo, 1 buồm, chuyên dùng đánh hỏa công. Thuyền ngoài (thuyền mẹ) dài khoảng 12m, trong khung chứa cỏ, củi, thuốc súng; đầu mũi cắm các đinh lớn, nhọn bằng sắt, hông thuyền cũng đầy đinh sắt. Thuyền trong (thuyền con) là chiến thuyền nhỏ. Khi chiến đấu, thủy thủ trong thuyền nhỏ chèo thật nhanh, lao thật mạnh vào thuyền đối phương, khiến cho những đinh sắt nhọn ở mũi, khung thuyền mẹ cắm vào mạn thuyền đối phương, sau đó người ta châm lửa đốt thuyền mẹ, rồi tách thuyền con ra khỏi thuyền mẹ, rút lui hoặc tiếp tục chiến đấu như một chiến thuyền thông thường. Lửa bắt vào cỏ, củi, thuốc nổ rồi lan sang và làm nổ tung thuyền đối phương.

Thời Trần, sử sách còn nhắc đến hai loại thuyền chiến mới. Đó là thuyền Châu Kiều và thuyền đinh sắt. Thuyền đinh sắt là loại thuyền được đóng ghép bằng những đinh sắt hoặc ốp những đinh sắt có đầu đinh lớn – một kỹ thuật đóng thuyền mới xuất hiện vào thời kỳ này để tăng độ lớn của thuyền và tăng độ bền vững trong những trận đấu thuyền Loại thuyền này khá lợi hại, mỗi mái chèo có hai người đẩy, lòng thuyền chia làm hai tầng, tầng dưới dành cho lính chèo thuyền, tầng trên lát sàn để lính chiến đấu dễ bề hoạt động. Có lẽ thuyền đinh sắt là tên gọi chung của các thuyền: thuyền lầu, thuyền cổ lâu, thuyền lưỡng phúc…

Thuyền chiến thời Trần thường được nhắc đến với 3 loại lớn, cũng là 3 cỡ lớn nhỏ khác nhau, ứng với các nhiệm vụ khác nhau. Thuyền lớn (đại chiến thuyền) – đôi chỗ sử sách nhà Nguyên gọi là chiến hạm – thường là thuyền của tướng chỉ huy, thuyền đối thủy – dùng sức thuyền chọi thuyền, có khả năng đi biển tương đối tốt. Loại thuyền cỡ trung bình là loại có khoảng 30 tay chèo và khoảng 20 – 30 lính chiến đấu. Loại thuyền thứ ba là thuyền nhỏ (tiểu thuyền) hay thuyền nhẹ (khinh thuyền) – loại thuyền cơ động nhanh. Thuyền chiến thời này được trang bị thêm sào dài (can phách) và câu liêm.

Cũng có cơ sở để chia thuyền chiến thời Trần thành các loại thuyền tải lương, thuyền chở lính đổ bộ, thuyền đối thủy, thuyền liên lạc và thuyền chỉ huy. Đáng chú ý là loại thuyền đối thủy đảm nhiệm những trận thủy chiến, trong đó đối phương cũng có quân thủy. Bộ phận lính chiến đấu trên thuyền cũng như lính chèo, lái đều mang tính chất chuyên thủy hơn các lực lượng khác. Họ chịu sóng tốt, giỏi bơi lặn và ít nhiều có kinh nghiệm chiến đấu trên mặt nước. Trong trận thủy chiến ở Vạn Kiếp, cửa Hải Thị (năm 1285), đặc biệt trong những trận thủy chiến ở vùng biển Đông Bắc do Trần Khánh Dư chỉ huy và trận Bạch Đằng do Nguyễn Khoái chỉ huy, chúng ta thấy rất rõ nhu cầu cũng như sự có mặt của những thuyền đối thủy. Các thuyền đinh sắt của Hồ Hán Thương sau này chính là sự hình thành ổn định và chuyên hóa loại thuyền đối thủy đó.

Vấn đề có tính chất cách mạng nhất trong quân thủy cuối thời Trần là sự xuất hiện những pháo thuyền đầu tiên. Năm 1390, trong một trận chặn đánh quân Chiêm ở cửa Hải Triều (ngã ba sông Hồng – sông Luộc hiện nay), tướng Trần Khát Chân đã dùng pháo thuyền bắn chết vua Chiêm là Chế Bồng Nga.

Năm 1403 – 1404, nhà Hồ bắt đầu cho đóng thuyền hai bụng/đáy (thuyền lưỡng phúc). Đó là một loại thuyền chiến hạng trung, đóng bằng gỗ, liên kết bằng đinh sắt, có buồm và nhiều mái chèo, có hai đáy (bụng): đáy trên chở lương thực, vũ khí hoặc lính chiến đấu; đáy dưới dành riêng cho phu chèo thuyền, chủ yếu dùng để vận tải.

Năm 1404, Hồ Nguyên Trừng chế tạo thuyền cổ lâu (cổ lâu thuyền) trên cơ sở kế thừa và phát triển kỹ thuật đóng thuyền lầu (lâu thuyền) bằng việc đặt súng Thần Cơ trên thuyền. Để đảm bảo bí mật, những thuyền này được ngụy trang như loại thuyền tải lương, với những tên như Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương.

Sang thời Lê, thuyền chiến gồm ba loại: thuyền vận tải, thuyền chiến đấu và thuyền đi tuần hoặc do thám, liên lạc. Thuyền chiến đấu có các phiên hiệu như: Thiện Hải thuyền, Đấu thuyền, Lâu thuyền, Tẩu Kha thuyền, Khai Lãng thuyền, Hải Cốt thuyền… với hình dáng, cấu trúc, chạm khắc, màu sắc, cờ hiệu khác nhau. Đó là những thuyền dài – Thuyền Thiện Hải dài 65 thước (khoảng 26m), rộng 10 thước (khoảng 4m), 46 cột chèo – thấp mạn nhưng cơ động, phù hợp với tính chất hoạt động trong sông và ven biển, trọng tải ước chừng khoảng 100 – 150 tấn. Vỏ thuyền gồm các ván được ghép bằng đinh sắt. Mũi thuyền vát hơn đuôi thuyền và đều uốn cao hẳn lên, thường được gia cố thêm bằng những phiến đồng hoặc đinh đồng. Phần lòng thuyền dường như để trống, phía trên lát ván kín, tạo ra một mặt bằng hoạt động rất cần thiết khi chiến đấu. Hai bên mạn thuyền có những mái chèo dày đặc (trung bình khoảng 50 – 60 mái chèo). Bánh lái trông rất độc đáo, như một dấu hỏi đặt nằm ngửa, nối với hệ thống cần lái ở đằng đuôi thuyền. Dọc hai bên thuyền là những cột nâng mái, tương ứng với hệ thống mái chèo. Lầu chỉ huy đặt ở mũi thuyền, trang trí đẹp. Điểm độc đáo nhất của cấu tạo thuyền này là một mái che lớn, che kín hầu như toàn bộ thuyền, đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người và vũ khí trên thuyền. Mỗi thuyền có từ 1 – 5 khẩu pháo. Điều này phù hợp với trình độ và xu hướng phát triển của quân thủy thế giới đương thời: thời kỳ phát triển cực thịnh của pháo thuyền. Trang bị cho lính chiến đấu trên thuyền gồm: súng hỏa mai, đao, dao găm, cung (hoặc nỏ), câu liêm… Đặc biệt trên thuyền chiến thời này có xuất hiện những chiếc phao hình quả bầu phòng khi thuyền đắm, tục gọi là quả nổi. Trên một số thuyền chỉ huy có thể được trang bị địa bàn và kính viễn vọng.

Đến thời Trịnh – Nguyễn, quân thủy của ta rất mạnh với những chiến thuyền chiến đấu ngang ngửa với chiến hạm của phương Tây. Năm 1643, thủy quân Chúa Nguyễn do Thế tử Nguyễn Phúc Tần chỉ huy đã dẫn đầu 50 thuyền chiến vây đánh 3 tàu chiến của Hà Lan (đồng minh của chúa Trịnh). Kết quả là đánh chìm 1 tàu chiến , hai chiếc kia bỏ chạy và một chiếc bị va vào đá ngầm rồi bị chìm. Tháng 8-1644, tàu Hà Lan do Thuyền trưởng Flavoer chỉ huy, được lệnh của Batavia đánh phá bờ biển Đàng Trong cũng lại bị quân Chúa Nguyễn đánh phải bỏ chạy. Một tu sĩ tên Choisy kể năm 1697, Chúa Nguyễn có 131 chiếc thuyền (chưa tính chiến thuyền địa phương), mỗi thuyền có chừng 60 tay chèo, 2 pháo thủ, 3 sĩ quan chỉ huy, hai trống trận. Tới thế kỷ 19, thuyền lầu được chọn như một loại thuyền chiến tiêu biểu cho quân thủy khi được khắc trên cửu đỉnh của triều Nguyễn.

Trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho biết, ở Quy Nhơn, thủy đội Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo hạm, 100 tàu buồm trang bị khá hùng hậu. Trong trang bị của thủy quân Tây Sơn xuất hiện thuyền đại hiệu – một loại thuyền được đánh giá là ngoại cỡ và là bước nhảy vọt trong lịch sử thuyền chiến nước ta. Thuyền đại hiệu được coi là các chiến hạm hay những pháo đài lớn di động trên biển, gồm ba loại: loại lớn nhất có 66 pháo và 700 lính; loại thứ hai có 50 pháo và 500 lính, loại thứ ba có 16 pháo và 200 lính. Số pháo, cỡ pháo và số lính trên các chiến hạm đó hoàn toàn tương xứng với các hạng chiến hạm đang phổ biến ở châu Âu đương thời. Những chiến hạm trên vượt xa các chiến hạm mà Pháp, Bồ Đào Nha đã cung cấp cho Nguyễn Ánh, cũng như do Nguyễn Ánh bắt chước đóng theo. Với những chiến hạm này, dù đóng theo kiểu Âu hay theo kỹ thuật truyền thống, Tây Sơn đã tạo ra một bước nhảy vọt trong lịch sử thuyền chiến nước ta. Và những pháo thuyền này đã làm khiếp đảm quân Xiêm, quân Trịnh, quân Nguyễn trong các trận Rạch Gầm – Xoài Mút, Phú Xuân…

Dưới thời Nguyễn Ánh và sau là Gia Long, Minh Mạng, triều đình đã cho đóng nhiều tàu chiến vỏ gỗ bọc đồng theo mẫu của phương Tây mang tên Phượng Phi, Bằng Phi, Long Phi, Con Sáo… Tàu được chạy bằng buồm, chiếc tàu to nhất được lắp 36 đại bác, chiếc vừa lắp 26 đại bác và mỗi tàu có 300 thủy thủ. Những tàu này có khả năng đi đến các vùng biển xa cũng như đến các nước láng giềng như các tàu chiến cùng loại của phương Tây. Nhờ những tàu chiến theo kiểu phương Tây này, kết hợp với việc luyện tập theo phương pháp mới, thủy quân của nhà Nguyễn lớn mạnh và làm nòng cốt trong cuộc chiến tranh chống quân Tây Sơn.

Theo VĂN ÚC / ĐẠI ĐOÀN KẾT

 

Tags: ,