Nhìn lại 15 năm đẫm máu và nước mắt của Iraq

Rạng sáng 20/3/2003, quân đội Mỹ và đồng minh tấn công Iraq với lý do mà Washington đưa ra là phá hủy kho vũ khí hủy diệt hàng loạt của Baghdad. Tròn 15 năm sau, thế giới đã chứng kiến một trang sử thấm đẫm máu và nước mắt tại quốc gia Trung Đông này và đây cũng được coi là chính sách đối ngoại sai lầm nhất trong lịch sử Mỹ.

Để đưa quân sang Iraq, chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush viện cớ rằng Tổng thống Iraq khi đó Saddam Hussein đã, hoặc tìm cách, chế tạo các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, đồng thời Baghdad có liên kết với các nhóm khủng bố, đơn cử như al-Qaeda.

Theo tờ Business Insider (Mỹ), dù mối quan hệ giữa ông Hussein với khủng bố và tham vọng hạt nhân của Iraq rõ ràng là không có thật, song Mỹ đã chiếm đóng Iraq trong gần 8 năm trước khi rút binh sĩ về nước, đồng thời tạo ra khoảng trống để tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) chen chân vào một quốc gia vốn đã quá kiệt quệ và mệt mỏi vì chiến tranh.

Hai năm sau khi rút quân, binh sĩ Mỹ lại quay trở lại Iraq và lần này là để chiến đấu với kẻ thù hoàn toàn khác biệt, đó chính là IS.

Nhiều chuyên gia cho rằng nếu như không có ngày 20/3/2003 đó, lịch sử dân tộc Iraq và có lẽ cả bản đồ địa chính trị khu vực Trung Đông đã khác rất nhiều và người dân Iraq chắc chắn đã không phải trải qua một trang sử 15 năm nhiều máu và nước mắt như thế.

Hơn 1 năm sau vụ khủng bố 11/9, chính quyền của Tổng thống Bush đưa ra bình luận tương tự về tham vọng hạt nhân của Tổng thống Iraq khi đó Hussein và mối quan hệ của ông với khủng bố.

Tháng 8/2002, Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney tuyên bố: “Chắc chắn ông Saddam Hussein hiện nắm trong tay vũ khí hủy diệt hàng loạt”.

Đến tháng 9 cùng năm, phát biểu với kênh CNN, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ khi đó Condoleeza Rice nói: “Chúng tôi không hề muốn bằng chứng hiển nhiên này biến thành đám mây hình nấm”.

Những tuyên bố như thế, kèm theo đánh giá tương tự của các quan chức đương nhiệm như Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và Ngoại trưởng Colin Powell, trên thực tế đều căn cứ theo các thông tin tình báo sai lệch hoặc có chủ ý.

Trong chính quyền Mỹ khi đó cũng có một số ý khiến không đồng ý với đánh giá tình báo của chính quyền Tổng thống Bush, như cựu Tư lệnh Bộ chỉ huy Trung tâm Mỹ – Tướng Anthony Zinni.

Ngày 20/3/2003, sau khi Tổng thống Mỹ Bush tuyên bố người đồng cấp Iraq Hussein có 48 giờ để từ bỏ quyền lực, Mỹ đã phóng tên lửa hàng trình Tomahawk vào Baghdad trong chiến thuật mà Lầu Năm Góc gọi là “gây sốc và kinh hoàng”. Theo sau đó là cuộc “đổ bộ” của khoảng 130.000 binh sĩ Mỹ.

Một biểu ngữ lớn có dòng chữ “Nhiệm vụ hoàn thành” được treo lên khi Tổng thống Bush phát biểu nhưng trên thực tế quân đội Mỹ vẫn phải chinh chiến trong nhiều năm sau phát biểu này của ông chủ Nhà Trắng.

Nhóm nổi dậy mà quân đội Mỹ phải đối đầu trong những năm sau đó bao gồm tội phạm, cựu quân nhân Iraq, phiến quân theo dòng Hồi giáo Sunni và thậm chí là chiến binh nước ngoài như al-Qaeda.

Trong năm 2004 và nhiều năm sau đó, binh lính Mỹ không chỉ chinh chiến ở riêng Fallujah mà còn nhiều khu vực khác khắp Iraq như Mosul, Samarra, Najaf, Abu Ghraib…

Vụ việc đã gây chú ý về lo ngại này càng gia tăng rằng quân nhân Mỹ thường xuyên vô tình sát hại người dân thường. Một trong những vụ việc nổi tiếng nhất xảy ra trong năm 2007 khi nhà thầu của Blackwater sát hại 17 người dân thường Iraq tại Quảng trường Nisour ở Baghdad.

Với gần 900 binh sĩ hy sinh, năm 2007 được coi là thời điểm “đẫm máu” nhất đối với quân đội Mỹ tại Iraq. Điều này phần nào gia tăng thêm tâm lý phản chiến trong lòng người dân và cả chính giới Mỹ.

Không lâu sau khi Tổng thống Barack Obama tuyên thệ nhậm chức, ông đã công bố quyết định rút quân ra khỏi Iraq. Những lính chiến Mỹ cuối cùng đã rời Iraq trong tháng 12/2011.

Cuộc chiến tại Iraq đã khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng, 4.500 binh sĩ Mỹ không bao giờ trở về và tiêu tốn 2.000 tỷ USD. Số người chết vẫn còn gây tranh cãi, cơ quan giám sát Iraq cho biết 1,5 triệu người Iraq bị chết, hơn 2 triệu người khác phải rời bỏ quê hương sang sống tỵ nạn ở nước ngoài.

Nhưng Chính phủ Iraq và quân đội quốc gia này đã không thể lấp đầy khoảng trống mà binh lính Mỹ đã để lại. Đến năm 2014, một nhóm khủng bố mới vô cùng tàn bạo có tên tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng đã trỗi dậy và gây rối ren, chiếm giữ nhiều khu vực trải dài tại miền Bắc Iraq. IS được thành lập bởi thủ lĩnh Al Qeada Abu Musab al Zarqawi trong năm 2004.

Trong năm 2014, hàng nghìn binh sĩ Mỹ được điều động đến Iraq để đối phó với IS nhưng lần này Mỹ đã có chiến thuật mới.

Cho dù nguyên nhân là rút kinh nghiệm từ lỗi lầm cũ hay do chính quyền mới có nghị trình khác biệt, ở thời điểm này binh sĩ Mỹ được điều động chủ yếu đảm nhiệm vai trò huấn luyện và hỗ trợ lực lượng an ninh Iraq cũng như lực lượng người Kurd đối đầu với IS.

Một cuộc điều tra của hãng thông tấn AP (Mỹ) cho kết quả khoảng 9.000 – 11.000 người dân thường đã thiệt mạng trong thời gian diễn ra chiến dịch tại Mosul.

Đến nay, vấn đề còn tranh cãi là cá nhân hoặc tổ chức nào phải chịu trách nhiệm về tình trạng IS chiếm đóng nhiều diện tích lãnh thổ tại Iraq trong năm 2014. Một số ý kiến đã đổ lỗi cho cuộc xâm lược của cựu Tổng thống Bush, ý kiến khác lại đánh giá sai lầm bắt nguồn từ việc Tổng thống Obama vội vã quyết định rút quân khỏi đất nước Trung Đông này.

Cuộc chiến của Mỹ và liên quân đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề không chỉ cho Iraq, cho khu vực Trung Đông mà còn cho chính nước Mỹ.

15 năm đã qua, vết thương Iraq vẫn rỉ máu. Iraq vẫn đắm chìm trong các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị-xã hội. Quốc gia Trung Đông này vẫn hàng ngày đối mặt với nguy cơ bạo lực, chia rẽ sắc tộc và tôn giáo giữa người Sunni, Shiite và người Kurd, giữa người theo đạo Thiên chúa và đạo Hồi.

Nhìn lại 15 năm qua, có một sự thật không thể phủ nhận là dân tộc Iraq vừa trải qua một trong những chương đen tối nhất lịch sử, người dân Iraq đã đi tới ngày hôm nay với quá nhiều mất mát, thấm đẫm máu và nước mắt – bắt đầu từ ngày 20/3/2003 đáng quên đó.

Theo BÁO TIN TỨC

Tags: , , ,