Kinh tế tri thức và thực hiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Sau mấy thập kỷ phát triển, hiện nay kinh tế tri thức đang tác động ngày càng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị và quan hệ quốc tế) của đời sống nhân loại. Sự tác động này báo hiệu một bước ngoặt phát triển, làm cho thế kỷ 21 sẽ ngày càng khác với thế kỷ 20.

Kinh tế tri thức và thực hiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức (knowledge economy) là xu thế khách quan của kinh tế thị trường, nhưng nhận thức chủ quan khác nhau thì sẽ có thái độ khác nhau đối với kinh tế tri thức, nên kinh tế tri thức có thể trở thành cơ hội phát triển chưa từng có đối với nước này, cũng có thể là thách thức sống còn với nước khác. Tất cả tuỳ thuộc vào thái độ của bộ máy cầm quyền. Hiện nay đã có 38 nước GDP/ người đạt mức 20.000 USD chủ yếu là vận dụng kinh tế tri thức. Còn những nước dựa vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ đang đi vào bế tắc. Tình hình đó cho thấy, nhận thức đúng về kinh tế tri thức là một tiêu chí của những người lãnh đạo hiện nay.I. Nhận thức lý luận về kinh tế tri thức

Vào cuối thế kỷ 20, trong nền kinh tế thị trường diễn ra hai biến đổi có tính bước ngoặt: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Hai cuộc cách mạng ấy gắn bó với nhau, tạo ra biến đổi sâu sắc nền kinh tế thị trường và xã hội công nghiệp. Sự biến đổi ấy được nhận thức từ nhiều quan niệm khác nhau: Thời kỳ kỹ thuật điện tử (Brzezinski); xã hội hậu công nghiệp (Daniel Bell); kinh tế hậu công nghiệp (A.Toffler); kinh tế thông tin (J.Naisbitt)… Từ năm 1990, tổ chức nghiên cứu vấn đề này của Liên hợp quốc đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức” (The knowledge ecnomy).

Hiện nay, thông qua toàn cầu hoá kinh tế, kinh tế tri thức đang lan toả mạnh. Thực tiễn ấy, giúp chúng ta nhận thức đúng hơn về bản chất, cấu trúc và hình thức vận động của kinh tế tri thức.

1. Để có nhận thức lý luận về kinh tế tri thức một cách đúng đắn, cần phải bắt đầu từ phương pháp luận khoa học, nhất là đối với Việt Nam – một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi nhớ lại, sau cuộc hội thảo đầu tiên về kinh tế tri thức ở nước ta, tôi nhận được yêu cầu của lãnh đạo Đảng về 3 câu hỏi:

– Kinh tế tri thức là gì ?

– Kinh tế tri thức với chủ nghĩa Mác – Lênin ?

– Kinh tế tri thức với sứ mệnh của giai cấp công nhân.

Như vậy, Đảng quan tâm đến vấn đề: Kinh tế tri thức và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta. Giải đáp vấn đề này phải có phương pháp luận khoa học:

Kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường mấy trăm năm qua. Bản chất của kinh tế thị trường là xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng sâu sắc cả về chiều rộng và chiều sâu, mà giai đoạn lịch sử đầu gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sau cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ 18, nền kinh tế thị trường hiện đại phát triển đầy biến động và nhanh dần, nó để lại đằng sau những gì là lỗi thời về cơ sở kỹ thuật, về quan hệ kinh tế, xã hội và thể chế chính trị. Đồng thời, nó cũng luôn phát hiện ra những lực lượng sản xuất mới, những quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị mới để không ngừng phát triển. Do đó, kinh tế thị trường không ngừng mở rộng không gian sản xuất và trao đổi, từ phạm vi vùng, miền ra phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Theo C.Mác, quá trình phát triển liên tục và đầy biến động như vậy là quá trình lịch sử – tự nhiên do lực lượng sản xuất hiện đại thúc đẩy, ngoài ý muốn của những người cầm quyền.

Từ nghiên cứu quá trình lịch sử – tự nhiên ấy mà Mác hầu như là người duy nhất xác định đúng vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản và giới hạn lịch sử của nó, cũng như tính tất yếu chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản.

Trong thực tiễn, bản chất kinh tế thị trường luôn gắn liền với hình thái lịch sử về quan hệ sản xuất và thể chế chính trị. Chỉ có quan niệm duy vật lịch sử mới giúp ta nhận thức đúng cơ sở chung của kinh tế thị trường ở các giai đoạn khác nhau. Mác đã chỉ rõ về phương pháp luận:

“Nếu người ta trút bỏ tính chất đặc trưng tư bản chủ nghĩa của tiền công, cũng như của giá trị thặng dư, của lao động cần thiết cũng như của lao động thặng dư, thì tất cả hình thái biến mất và chỉ còn lại là cơ sở của chúng, những cơ sở này là chung cho tất cả mọi phương thức sản xuất xã hội[1].

Đây là căn cứ để chúng ta nhận thức đúng về kinh tế thị trường và giai đoạn cao là kinh tế tri thức. Chỉ có nắm chắc những cơ sở chung mới có khả năng vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả.

Vì thiếu phương pháp luận nên các Đảng Cộng sản cầm quyền thế kỷ 20 đã sai lầm về đường lối kinh tế, xã hội. Ở nước ta hiện có quan điểm sai cho rằng: “Kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu chính trị”, nên đã không nhận thức được mối quan hệ nhân – quả giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là mối quan hệ giữa kinh tế thị trường nhiều thành phần, kinh tế đầu tư nước ngoài với định hướng chính trị.

Thực tiễn cho thấy: Không nhận thúc đúng kinh tế thị trường thì khó nhận thức đúng kinh tế tri thức, càng không thể vận dụng kinh tế tri thức.

2. Xu hướng phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đi đến ra đời kinh tế tri thức

Thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại khoảng 300 năm qua cho thấy, sức sống và trình độ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đều bắt nguồn từ trình độ xã hội hoá, tạo ra mối quan hệ giữa các nguồn lực xã hội với các nhu cầu xã hội. Bởi vì, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng có tính chất xã hội thì sẽ đánh thức mọi tiềm năng về vật chất và trí tuệ của xã hội vào phát triển kinh tế thị trường. Mức độ khai thác các tiềm năng vật chất của xã hội thể hiện rõ ở quy mô phát triển của lực lượng sản xuất, còn mức độ huy động và sử dụng tốt các tiềm năng trí tuệ của xã hội lại là chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Do tương tác thường xuyên giữa các nguồn lực xã hội với các nhu cầu xã hội nên lực lượng sản xuất hiện đại luôn phát triển. Nghiên cứu lực lượng sản xuất hiện đại thế kỷ 19, C.Mác đã nhìn thấy “cơ sở kỹ thuật cơ khí là có tính chất cách mạng”, nó đòi hỏi thay đổi những quan hệ sản xuất và thể chế chính trị đã lỗi thời, đồng thời gợi mở những quan hệ sản xuất mới và thể chế mới từ thực tiễn.

Sự vận động của lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường cho thấy: mức độ huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của xã hội có ý nghĩa quyết định mức độ khai thác và hiệu quả của tiềm năng vật chất của xã hội. Vì vậy, trong các nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện có hai xu hướng phát triển khác nhau:

Một là,những nền kinh tế thị trường dựa chủ yếu vào huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của quốc gia và thế giới. Đây là những nước hiện nay đã bước vào giai đoạn kinh tế tri thức.

Hai là,những nền kinh tế thị trường chủ yếu dựa vào khai thác tiềm năng vật chất (về tài nguyên và lao động giản đơn). Đây là những nước đang phát triển và kém phát triển, thường thiệt nhiều trong cạnh tranh thị trường, có nhiều nguy cơ là bãi rác của các nước phát triển trong hợp tác đầu tư nước ngoài.

3. Vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức là cơ sở chung của tiến trình từ giai đoạn kinh tế công nghiệp lên giai đoạn kinh tế tri thức

Lực lượng sản xuất hiện đại bao gồm hai bộ phận: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng lao động sản xuất và tổ chức quản lý kinh doanh. Lịch sử phát triển kinh tế thị trường hiện đại luôn gắn liền với lịch sử diễn ra các cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật. Cuộc cách mạng đầu tiên (thế kỷ 17, 18) đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, đã hình thành lực lượng lao động cơ khí và tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật thứ hai (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) đã nâng cơ sở kỹ thuật cơ khí lên trình độ nửa tự động hoá và hình thành hệ thống tổ chức quản lý mới, dưới hình thức các tập đoàn, đưa chủ nghĩa tư bản lên giai đoạn độc quyền, bắt đầu ở nước Đức. Kinh tế thị trường với các tập đoàn tư bản đã phát triển phạm vi khu vực và thế giới. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ ba vào cuối thế kỷ 20 đã thực hiện một cuộc cách mạng trong cơ sở vật chất kỹ thuật, trong lực lượng lao động và tổ chức quản lý kinh tế thị trường, bắt đầu hình thành kinh tế tri thức.

Nhìn từ chiều sâu của tiến trình lịch sử phát triển nói trên, người ta thấy rõ vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức. Cùng với quá trình hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tri thức là sự hình thành lực lượng lao động mới, được gọi là lao động tri thức vừa có tính chất chuyên nghiệp vừa có tính chất liên ngành, tiêu biểu cho giai đoạn “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.

Hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật mới và cơ cấu lao động xã hội mới của nền kinh tế tri thức vẫn còn vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Nhưng xét về tiến trình lịch sử, cơ sở kinh tế – xã hội ấy không phải là cơ sở của chủ nghĩa tư bản, mà của một xã hội hậu tư bản đang lớn mạnh trong lòng chủ nghĩa tư bản. Các cuộc khủng hoảng từ nay trở đi không chỉ là khủng hoảng kinh tế – tài chính, mà thực chất là khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa. Nó đang kiểm nghiệm điểm dự báo của Mác về “sự phủ định của phủ định” đối với chủ nghĩa tư bản.

4. Sự phát triển tự do của mỗi người

Trong kinh tế thị trường, quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất cùng với sự cạnh tranh đã tạo ra khả năng phát triển của các tập thể và các cá nhân. Đây là một ưu thế của kinh tế thị trường mà các hình thái kinh tế khác không có.

Nhưng khả năng phát triển tập thể và cá nhân chỉ bộc lộ dần dần theo các nấc thang phát triển của kinh tế thị trường. Vì khả năng và giới hạn phát triển này dựa trên cơ sở kinh tế của nó là quy mô giá trị gia tăng đủ lớn và sự phân phối phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường. Trường hợp ra đời các công ty cổ phần một cách phổ biến từ nửa cuối thế kỷ 20 chỉ rõ điều đó. Trong công ty cổ phần, số công nhân trở thành cổ đông ngày càng tăng (hiện nay nhiều người dân ngoài công ty cũng trở thành cổ đông). Cùng với sự phát triển của công ty cổ phần thì sở hữu cá nhân của người lao động trở thành phổ biến, xoá bỏ dần “tính chất vô sản” của người lao động. Ngoài ra trong công ty cổ phần còn có quỹ đầu tư phát triển ngày càng lớn. Đây là số vốn không chia, nên hình thành sở hữu tập thể hay sở hữu xã hội. Như vậy, kinh tế thị trường ở giai đoạn công ty cổ phần đã làm biến đổi sâu sắc sở hữu tư bản, do sự hình thành sở hữu cá nhân của người lao động và sở hữu tập thể.

Sự phát triển này là xu thế tất yếu của sản xuất giá trị thặng dư (hay giá trị gia tăng) trong một thời gian dài dưới sở hữu tư bản gắn với giai đoạn lịch sử “người bóc lột người”. Nhận rõ xu thế này nên Ph.Ăngghen khẳng định:

“Hai phát hiện của Mác – quan niệm duy vật lịch sử và giá trị thặng dư, đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học”.

Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, theo xu thế kinh tế thị trường, là sở hữu cá nhân gắn liền với sở hữu xã hội, chứ không phải là sở hữu nhà nước. Không nhận thức được luận điểm này của Mác và Ăngghen, nên các Đảng Cộng sản cầm quyền thế kỷ 20 chỉ biết có sở hữu nhà nước, đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu xã hội chủ nghĩa. Không thấy sở hữu nhà nước chỉ là một trong những điều kiện cần để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, họ còn thành kiến với sở hữu cá nhân và sự phát triển của cá nhân – cơ sở vững bền của nền dân chủ đích thực.

Xu thế hình thành cơ sở kinh tế cho sự phát triển tự do của mỗi người và của cộng đồng nói trên đạt được chất lượng mới trong nền kinh tế tri thức, do những ưu thế của kinh tế tri thức đem lại như:

(-) Kinh tế tri thức đạt được năng suất lao động cao chưa từng có, thúc đẩy sự tăng nhanh sở hữu cá nhân và sở hữu xã hội.

(-) Người lao động không chỉ được bảo đảm đời sống vật chất, mà còn có thời gian rỗi để hưởng thụ văn hoá và góp phần xây dựng nền văn hoá mới, thể hiện cụ thể “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của mọi người” (Mác). Còn theo quan sát của A.Einstein (nhà khoa học hàng đầu của thế kỷ 20) thì “Chỉ cá nhân đơn lẻ mới có thể tư duy và qua đó tạo ra những giá trị mới cho xã hội… cũng như vậy, một cá thể đơn lẻ sẽ không thể phát triển nếu thiếu mảnh đất dinh dưỡng của cộng đồng”[2].

(-) Tiềm năng, ưu việt của kinh tế tri thức còn thể hiện ở xu hướng mới của phát triển khoa học có tính chất liên ngành, đặc biệt xu hướng thâm nhập vào nhau của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu khoa học) hướng vào hình thành mối quan hệ hài hoà giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Dự báo của Mác về sự hình thành “khoa học về con người” thì phải đến thời đại kinh tế tri thức mới thành hiện thực.

(-) Sự phát triển kinh tế tri thức đến trình độ nào đó sẽ làm thay đổi phương thức lao động và sản xuất, phương thức tiêu dùng và lối sống của xã hội của nền văn minh mới.

5.Sự phát triển kinh tế thị trường theo định hướng mới

Nét đặc biệt trong thời đại hiện nay là cùng với quá trình phát triển kinh tế tri thức thì xuất hiện định hướng mới của kinh tế thị trường là phát triển bền vững ngày càng bộc lộ và tạo thành một sức ép toàn cầu. Sự xuất hiện định hướng mới của phát triển kinh tế thị trường là do những tất yếu khách quan sau đây:

Một là,suốt chiều dài lịch sử chủ nghĩa tư bản, mục tiêu phát triển kinh tế chỉ vì lợi nhuận của chủ đầu tư, coi thường những vấn đề xã hội và môi trường. Cho đến cuối thế kỷ 20, tác động của những vấn đề xã hội, môi trường đã đến mức cản trở phát triển kinh tế và uy hiếp sự sống còn của loài người, kể cả chủ nghĩa tư bản. Tình hình đó đặt ra vấn đề thay đổi định hướng phát triển kinh tế, bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường.

Hai là,sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo ra khả năng thay đổi định hướng kinh tế thị trường. Bản thân kinh tế tri thức phải hướng thẳng vào mục tiêu phát triển bền vững ấy, nếu không, những thành tựu của kinh tế tri thức sẽ trở thành sức tàn phá, huỷ diệt loài người khi nó rơi vào tay những lực lượng chống lại loài người. Cảm nhận được điều này, nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới đã chỉ ra rằng: ở thời đại chúng ta, các đại diện của giới chính trị, khoa học và công nghệ phải chịu trách nhiệm đạo lý đặc biệt lớn.

Tác động của xu thế phát triển bền vững đang đặt ra một vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu là thay đổi mô hình kinh tế đặc biệt là các mô hình kinh tế thị trường tự do và mô hình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ. Sự thay đổi này đòi hỏi một tầm nhìn thời đại mới, có ý nghĩa quyết định đối với nước đang phát triển.

6.Sự phát triển con đường rút ngắntrở thành quy luật của các nước phát triển sau

Từ sau cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ 20, đưa nền kinh tế công nghiệp lên trình độ nửa tự động hoá, đưa trình độ tổ chức, quản lý kinh tế lên trình độ tập đoàn kinh tế (tư bản chủ nghĩa) thì bắt đầu xuất hiện khả năng phát triển theo con đường rút ngắn đối với các nước lạc hậu. Nếu quá trình công nghiệp hoá lần đầu tiên ở nước Anh phải mất hơn một trăm năm thì mấy nước gọi là con rồng châu Á chỉ mất khoảng 30 năm. Thời gian để tăng GDP/đầu người lên gấp đôi cũng khác nhau: ở Anh cần 50 năm, Nhật chỉ 34 năm thì Hàn Quốc chỉ mất 11 năm, Trung Quốc 10 năm.

Sở dĩ xuất hiện con đường rút ngắn là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra các tiền đề về khoa học và công nghệ về giáo dục và đào tạo, về y tế, về tổ chức và quản lý, về vốn đầu tư cho các nước phát triển sau, thông qua quá trình toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa.

Bằng tầm nhìn phát triển thế giới, Lênin là người đầu tiên nhận thấy các tiền đề xây dựng chế độ mớiđã hình thành trong lòng chủ nghĩa tư bản. Tầm nhìn ấy được Lênin thể hiện bằng hình ảnh:

“Chủ nghĩa xã hội nhìn sang chúng ta từ tất cả các khung cửa của chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa xã hội đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một bước tiến trên cơ sở chủ nghĩa tư bản hiện đại ấy”[3].

Vào cuối thế kỷ 20 trở đi, khi kinh tế tri thức ra đời và lớn mạnh thì những tiền đề ấy đã có một bước phát triển cao hơn về chất lượng. Thu hút những thành tựu ấy từ các nước phát triển để xây dựng chế độ mới là vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc trong đường lối phát triển của đảng cầm quyền.

Thực tiễn hợp tác đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế thế giới những năm qua đã đem lại một bài học cảnh tỉnh các nước phát triển sau. Đó là nhà đầu tư nước ngoài chỉ lo thu lợi nhuận trước mắt của họ, bất chấp những vấn đề xã hội và môi trường bị tàn phá của nước sở tại, kể cả trong hợp tác đầu tư cho giáo dục đại học. Bài học chỉ ra rằng: không nên trách nhà đầu tư đi tìm lợi nhuận, mà nên tự trách mình (nước tiếp nhận đầu tư) không đủ trình độ để lựa chọn những thành tựu mình cần và biết tránh những mánh khoé, thủ đoạn kinh doanh kiểu cũ của nhà đầu tư nước ngoài.

II. Một số vấn đề cơ bản trong thực tiễn phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế tri thức được đưa vào Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mức độ “Từng bước vận dụng kinh tế tri thức”. Quá trình mở cửa và hội nhập chịu tác động ngày càng tăng của kinh tế tri thức (đang vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản), làm bộc lộ cả tiềm năng và hạn chế của nước ta, rõ nhất là ở thực trạng nền kinh tế và thể chế kinh tế chính trị. Để phân tích đầy đủ tiềm năng và hạn chế của ta trước xu thế kinh tế tri thức, cần có sự tổng kết ở phạm vi quốc gia để định vị nước ta và định hướng phát triển kinh tế tri thức. Ở phạm vi một nghiên cứu ngắn, tôi chỉ có thể nêu một số vấn đề cơ bản từ thực tiễn nước ta.

1.Định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức

Tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ 20 với chiến công lừng lẫy nhưng cuối cùng đều thất bại do đường lối phát triển kinh tế – xã hội không hợp thời đại. Bài học lịch sử thế giới đó chỉ ra rằng cơ sở kinh tế công nghiệp cơ khí không phải là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Cuộc đại khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay lại phát đi tín hiệu rằng kinh tế tri thức không phải là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản mà của một xã hội thay thế nó. Chính sức mạnh của tất yếu kinh tế trong thời đại hiện nay đang là thách thức lớn nhất đối với tất cả các chế độ chính trị trên thế giới. Trong đó khó khăn hơn là đối với các nước lạc hậu phát triển sau. Không phải ngẫu nhiên, nhà nghiên cứu P.F.Drucker đã nhận thấy sự vận động: “Các nước phát triển đang chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể được gọi là chủ nghĩa tư bản”[4].

Xét về bản chất, kinh tế tri thức không phải là cơ sở của nền thống trị của số ít đối với nhân dân, của chủ nghĩa bá quyền nước này đối với nước khác.

Từ những quan sát ấy có thể nhận rõ rằngsự phát triển kinh tế tri thức là cơ hội chưa từng có của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (với nội hàm là phát triển bền vững).

Liên hệ với thực tế thì thấy rằng: trong thời đại kinh tế tri thức kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa là có cơ sở khoa học thực tiễn. Nhưng sự kiên trì này ở Việt Nam lại chưa được thể hiện trong mô hình phát triển kinh tế – xã hội. Với những vấn nạn về xã hội và môi trường ngày càng tăng, với những hậu quả của tệ quan liêu, tham nhũng trong quản lý đã cho thấy mô hình công nghiệp hoá hiện nay (dựa trên khai thác tài nguyên và lao động rẻ) đã lỗi thời, hoàn toàn không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và với thời đại hiện nay.

Chuyển sang mô hình kinh tế thị trường dựa trên kinh tế tri thức là một đòi hỏi cấp bách của định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa phù hợp với thời đại kinh tế hiện nay. Đây phải là một trong những vấn đề chiến lược cơ bản của Đại hội XI của Đảng sắp tới.

2.Kết hợp nội lực với ngoại lực

Nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó thì dân tộc mới có thể đồng hành cùng thời đại. Ngoại lực ở đây là những thành tựu của kinh tế tri thức trên tất cả các lĩnh vực, chứ không phải bất cứ ngoại lực nào. Không có ngoại lực này thì các nước phát triển sau chỉ dừng lại ở nền kinh tế thị trường hoang dã. Chính vì vậy mà Lênin đòi hỏi phải dang cả hai tay mà nắm lấy những thành tựu tiên tiến của chủ nghĩa tư bản.

Mặt khác, muốn sử dụng thành tựu tiên tiến làm cho dân giàu nước mạnh thì phải phát huy nội lực của dân tộc. Trong đó chủ yếu nhất lànguồn nhân lực có chất lượng cao trên các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hoá, lãnh đạo và quản lý các cấp và doanh nghiệp. Không có hoặc thiếu nguồn nội lực như vậy thì chỉ tiếp nhận những nguồn ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là rác thải của các nước khác.

Nhìn vào thực trạng nước ta, đây đang là khâu yếu nhất của cả hệ thống, từ trình độ công nghệ cao và tổ chức quản lý ở doanh nghiệp cho đến các lĩnh vực khoa học và công nghệ, nền giáo dục, đào tạo, môi trường văn hoá, hệ thống lãnh đạo quản lý các cấp. Hệ quả là chỉ có thể tăng vốn đầu tư để đạt tốc độ tăng trưởng cao, còn chất lượng, hiệu quả thấp.

3. Xây dựng thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu vận dụng và phát triển kinh tế tri thức

Một thể chế kinh tế chính trị như vậy sẽ phát huy ngày càng đầy đủ những ưu thế của định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Muốn xây dựng thể chế như vậy, cần có nhận thức mới và giải quyết đúngnhững vấn đề chủ yếu sau đây:

a. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế

Vận dụng quan điểm duy vật lịch sử trong phát triển kinh tế thị trường, Lênin đã đề ra nguyên lý:

“Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”.

Đây là nguyên lý của Đảng lãnh đạo và của Nhà nước quản lý. Nguyên lý đó chỉ rõ: quan điểm chính trị của đảng cầm quyền phải phản ánh được quy luật và nhu cầu của kinh tế phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức (chứ không phải chủ quan duy ý chí, dù là của số đông). Trên cơ sở ấy, và chỉ trên cơ sở ấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước sẽ phát huy đầy đủ tác dụng và hiệu quả. Đây còn là cơ sở để xây dựng nền dân chủ từ trong phát triển kinh tế, để khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, tệ nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm của quan chức. Chỉ trên cơ sở ấy mới có mối quan hệ công khai, minh bạch, công bằng trong thực tế.

Trong giai đoạn hiện nay, nền chính trị tiến bộ phải phản ánh được yêu cầu phát triển bền vững với nội hàm là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” như đường lối đã nêu (nhưng chưa thực hiện). Địa vị hàng đầu của chính trị chính là giải quyết được khâu “đi đôi” trong thực tế, tức là bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường, chứ không phải chỉ nói trong hội nghị, còn ngoài đời sống thì tình trạng ô nhiễm tăng lên, tàn phá tài nguyên và môi trường nặng nền như hiện nay.

b.Cấu trúc và sự vận hành của thể chế

Dựa trên nguyên lý giữa chính trị với kinh tế nói trên để hình thành cấu trúc của thể chế gồm ba bộ phận:Tổ chức lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tổ chức của hệ thống doanh nghiệp, hệ thống các tổ chức xã hội dân sự. Hiệu quả của thể chế phụ thuộc không những vào cấu trúc như trên, mà còn phụ thuộc vào phương thức vận hành của thể chế: đó là thiết lập mối quan hệ thông tin, tương tác thường xuyên giưa các bộ phận. Trên cơ sở tích hợp thông tin (không ngừng biến đổi từ thực tiễn) mà mỗi bộ phận tìm ra phương án hoạt động tối ưu của mình. Nhờ đó, cả thể chế sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.

Đối với đảng cầm quyền, chỉ có thể chế kinh tế chính trị với cấu trúc và vận hành như vậy, thì mới có khả năng gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trên thực tế trong giai đoạn mới. Nếu không, đó chỉ là một quan điểm trừu tượng mà thôi.

4.Mối quan hệ giữa con người với tổ chức

Mối quan hệ này hình thành trong nền kinh tế thị trường. Nhưng ở giai đoạn kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa, con người chỉ là công cụ của tổ chức và tổ chức chỉ là công cụ của ông chủ để thực hiện mục đích làm giàu. Còn ở giai đoạn kinh tế tri thức, mặc dù vẫn còn trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản, nhưng cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi cá nhân và tổ chức phải có tính chủ động, sáng tạo. Những ông chủ khôn ngoan đã biết khai thác ưu thế này và họ đang chuyển biến thành một dạng lao động tri thức, ngày càng không giống những ông chủ trước đây.

Mối quan hệ mới giữa cá nhân và tổ chức trong kinh tế tri thức hình thành trong môi trường văn hoá mới. Những công trình nghiên cứu về quản lý các nước phát triển cho thấy: trong giai đoạn kinh tế công nghiệp phát triển dựa trên “con người kinh tế” như một động lực, còn trong giai đoạn kinh tế tri thức phát triển lại dựa vào “con người văn hoá” mang tính chất động lực và mục tiêu.

Nước ta chưa xây dựng kinh tế tri thức nên đây là một vấn đề mới nhưng là một tất yếu khách quan của giai đoạn mới.

5.Thời gian và phát triển

Kinh tế thị trường dựa trên quá trình xã hội hoá và cạnh tranh, nên nhân tố thời gian ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cá nhân và tổ chức. Tiết kiệm thời gian là một ưu thế của xã hội công nghiệp khác hẳn với các xã hội tiền công nghiệp. Các Mác đã nói tới “Quy luật tiết kiệm thời gian” là một trong những quy luật phát triển kinh tế thị trường. Tác động của quy luật này trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thể hiện ở sự rút ngắn dần thời gian công nghiệp hoá, ở năng suất lao động ngày càng cao, thời gian lao động được rút ngắn.

Quy luật tiết kiệm thời gian chỉ phát huy tác động tốt nhờ sự phát triển khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lý, nhất là nhờ một thể chế kinh tế chính trị hợp lý mới khai thác được tiềm năng to lớn về tiết kiệm thời gian, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế tri thức.

Đối với nước phát triển sau, đây là cơ hội lớn để tiến kịp thời đại, nếu có tổ chức và thể chế vận hành phù hợp cho phép tiết kiệm mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực tự nhiên. Quy luật tiết kiệm thời gian phát huy đầy đủ sức mạnh của nó khi kinh tế thị trường theo định hướng phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức. Quy luật này bị xoá bỏ trong những thể chế quan liêu, tham nhũng, những lĩnh vực hoạt động không có sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và xã hội. Những nghiên cứu gần đây cho thấy: những công trình công nghiệp hoá dựa vào khai thác tài nguyên, tàn phá môi trường đều rơi vào tăng trưởng kinh tế số âm, dù thống kê nhà nước đem lại tỷ lệ tăng trưởng dương. Tăng trưởng như thế có thể đem lại một số lợi ích hạn hẹp cho thế hệ hiện nay nhưng sẽ để lại những hậu quả lâu dài cho các thế hệ mai sau. Đây cũng là vấn đề hiện nay của Việt Nam. Nó đặt ra tính cấp bách của sự chuyển sang phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức./.

—————————————————————

Chú thích:

[1]C.Mác,Tư bản, QIII, t3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.363.
[2]A.Einstein,Thế giới như tôi thấy, Nxb Tri thức, 2005, tr.24.
[3]V.I.Lênin,Toàn tập, t34, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr.258.
[4]P.F. Drucker,Xã hội hậu tư bản, 1995, tr.9.

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN 

Tags: ,