Một số nhân vật nổi tiếng lịch sử Việt Nam sinh năm Tý

Nhân dịp xuân Canh Tý 2020, xin trân trọng giới thiệu một số nhân vật lịch sử Việt Nam cầm tinh con chuột.

Nguồn:Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. H,1992. Nxb Văn hóa.

Nguyễn Xí (Bính Tý, 1396- 1464)

Danh tướng đời Lê Thái Tổ, gốc quê làng Thượng Phúc, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Sau lên đất Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa tham gia nghĩa quân Lam Sơn làm gia thần Lê Lợi, sau khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được ban họ Lê vì có công lớn trong cuộc kháng Minh.

Năm Mậu Tuất 1418 nghĩa quân Lam Sơn bị vây khổn ở núi Chí Linh, quân sĩ dần dần chán nản bỏ quân ngũ, Nguyễn Xí cùng với Lê Bí, Lê Đạp bí mật nương náu ở núi Chí Linh bên cạnh Lê Lợi. Ngay lúc ấy may nhờ tướng sĩ một lòng trung nghĩa, ông mở vòng vây giặc, lui về đất Lam Sơn cố thủ, chuẩn bị tổng tấn công quân Minh.

Năm Giáp Thìn 1424, Lê Lợi cho rút quân về Khả Lưu thuộc tỉnh Nghệ An để giữ nơi hiểm yếu. Lúc ấy quân Minh tấn công, nhưng quân giặc không lường được khả năng quân sự của nghĩa quân nên bị nghĩa quân đánh tan tác. Các tướng Lê Lễ, Lê Sát…. trong đó có Nguyễn Xí (Lê Xí) cùng nhau tiến lên phá giặc, “chém đầu giặc không sao kể xiết, thuyền giặc trôi ngổn ngang, xác chết đuối nghẽn tắc cả khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi” (Đại Việt sử kí toàn thư)

Năm Đinh Mùi 1427, ông cùng Đinh Lễ đem quân đánh tan trận phản công của Vương Thông phía Nam thành Đông Quan khiến lực lượng quân Minh ngày càng suy giảm dần. Trong năm này toàn bộ lực lượng nghĩa quân tấn công quân địch trên khắp các mặt trận, quân Minh ở Nghệ An phải ra hàng, Nguyễn Xí được lệnh Lê Lợi đem đại quân Thiết Đột đến đuổi giặc ở Mi Động và chẳng may ông bị giặc bắt. Nhân lúc đang đêm mưa gió, ông dùng mẹo đánh lừa quân giữ thành trốn thoát được về ra mắt thủ lĩnh Lê Lợi, rồi được cho cầm quân như cũ và ông là một trong các tướng chiếm thành Đông Quan.

Ngày 3 tháng 11 năm 1427 toàn bộ quân địch đầu hàng sau 10 năm quân Lam Sơn kháng chiến anh dũng. Trong đó công lao của Nguyễn Xí đã góp phần quyết định cho chiến thắng.

Sau khi Lê Lợi lên ngôi, ông từng giữ các chức: Tham chính sự, Nhập nội đô đốc, được tặng thưởng biểu ngạch công thần, tước huyện hầu.

Năm Ất Sửu 1445 quân Chiêm Thành vào cướp phá châu Hóa. Ông được triều đình cử vào tảo thanh quân giặc, nhưng gặp lụt lớn nên quân ta bị thua, ông bị phạt tội. Sau đó triều đình xét ông là vị khai quốc công thần nên miễn nghị. Đến đời Lê Thánh Tông ông được phong chức Thái úy vì có công phế truất Nghi Dân để đưa Lê Tư Thành lên ngôi (Lê Thánh Tông). Ông mất năm 1464, hưởng thọ 68 tuổi. Nguyễn Xí là vị tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và chính trị.

Võ Duệ (Mậu Tý, 1468- 1522)

Danh sĩ đời Lê Thánh Tông, quê làng Trình Xá, huyện Sơn Vi, tỉnh Sơn Tây.

Năm Canh Tuất 1490 ông đỗ Trạng nguyên lúc 22 tuổi. Ông làm Tham chính ở Hải Dương đến đời Lê Chiêu Tông (1520), ông được phong Trình Ý công thần, Thượng thư bộ Lại, Thiếu bảo, kiêm Đông các đại học sĩ, tước Trình Khê Bá.

Khi ông làm quan, thấy Mạc Đăng Dung giết hại quan Ngự sử Đỗ Nhạc, bức hiếp vua Lê và các đại thần, ông phẫn uất có ý muốn triệt hạ Mạc Đăng Dung để cứu loạn an dân. Nhưng Lê Chiêu Tông hèn yếu, năm 1522 bỏ ngôi chạy vào Thanh Hóa để tránh sự áp đảo của Mạc Đăng Dung. Ông chạy theo vua. Vào đến Thanh Hóa thì nhà vua bị nhóm Trịnh Tuy bức bách đi nơi khác. Ông già yếu không theo kịp, đau xót tự vẫn, chết khoảng cuối năm Nhâm Ngọ 1522, hưởng dương 54 tuổi. Ngô Hoán và Nguyễn Mẫn Đốc cũng tự vẫn chết theo ông.

Nhà Lê Trung Hưng, truy phong ông vào bậc nhất tiết nghĩa, làm Phúc thần thượng đẳng, dựng đền thờ phụng.

Lê Quang Bí (Giáp Tý 1504- ?)

Còn gọi là Lê Quang Bôn (vì chữ Bí cũng đọc là Bôn, nên có sách chép là Lê Quang Bôn), Văn thần nhà Mạc, tự Thuần Phu, hiệu Hối Trai. Dòng dõi Lê Cảnh Tuân, con Lê Nại, cháu Lê Đỉnh, cháu ngoại Võ Quỳnh, quê làng Mộ Trạch, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương.

Năm Bính Tuất 1526 ông đỗ nhị giáp tiến sĩ (hoàng giáp) 22 tuổi, đời Lê Cung Hoàng. Năm 1527 Mạc Đăng Dung đảo chính, ông thành bề tôi nhà Mạc, làm Tả thị lang bộ Hộ.

Năm Mậu Thân 1548, ông đi sứ nhà Minh, bị vua Minh giữ lại không cho về. Suốt 18 năm bị đày ở Trung Quốc, ông vẫn giữ vững tiết tháo, không quị lụy khiến đám quan lại nhà Minh phải cảm phục tài đức. Vì vậy ông được về nước.

Năm Bính Dần 1566, ông về đến nước nhà tóc đã bạc phơ (62 tuổi) khiến cả triều đình đều cảm động, Mạc Mậu Hợp phong ông làm Thượng thư bộ Hộ, tước Mộ Xuyên Hầu. Sau khi mất được truy tặng Thiếu bảo tước Tô Quận Công. Ông là tác giả sách Tư hương vận lục, trong đó có nhiều thơ vịnh sử, về các nhân vật trong thân tộc như: Lê Cảnh Tuân, Lê Nại….

Giáp Hải (Bính Tý, 1516- 1588)

Danh sĩ đời Mạc, tự Tiềm Phu, hiệu Tuyết Trai, quê làng Sinh Kế, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang (có sách chép làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh [nay là Hà Nội]).

Năm Mậu Tuất 1538, đời Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên, mới 23 tuổi (có sách chép 32 tuổi), đổi tên lại là Trưng nên cũng gọi là Giáp Trưng.

Ông có tiếng về văn thơ, được sĩ phu đương thời trọng vọng. Mỗi khi có việc bang giao với nhà Minh, ông thường lãnh việc đối đáp và thảo văn thư, khiến họ phải nể phục gọi là Giáp Trạng nguyên.

Năm Quý Tỵ 1583, đời Mạc Mậu Hợp, ông làm Thượng thư bộ Lại, tước Luân Quận Công, gia thăng Thiếu bảo. Năm sau, lại được trông coi cả 6 bộ, kiêm Đông các đại học sĩ, coi cả việc Kinh điển.

Năm Bính Tuất 1586 ông nghỉ hưu ở tuổi 70. Sau hai năm (Mậu Tý 1588), đời Mạc Mậu Hợp ông mất, thọ 72 tuổi.

Ông có soạn một bộ Ứng đáp bang giao cũng gọi là Bang giao bị lãm gồm 10 quyển ghi các công văn ngoại giao giữa Việt Nam- Trung Quốc.

Phùng Khắc Khoan (Mậu Tý, 1528- 1613)

Danh sĩ đời Lê Thế Tông, hiệu Nghi Trai, tự Hoằng Phu, quê xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây.

Ông vốn cùng mẹ khác cha với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông nổi tiếng thơ văn, chí khí khảng khái, hào hùng. Năm 1550 đang lúc nhà Mạc áp đảo nhà Lê, ông theo Lê Bá Li vào Thanh Hóa phù tá Lê Trung Tông. Ông ra thi, đỗ đầu khoa thi Hương, được bổ làm Ngự doanh ký lục, coi sóc quân Tứ vệ góp sức chiêu dân vào Thanh Hóa lập nghiệp, được thăng chức Lễ khoa cấp sự trung.

Năm Canh Thìn 1580, ông đỗ Nhị giáp tiến sĩ, làm Đô cấp sự trung, một thời gian bị bãi chức, sau lại được triệu dụng phong Hồng lô tự khanh, rồi giữ chức Thị lang bộ Công.

Năm 1579, ông đi sứ nhà Minh. Với khí phách hào hùng, bảo tồn quốc thể, biện bác áp đảo quan lại cao cấp triều Minh, khiến vua Minh cũng phải chấp nhận những lý lẽ ông bênh vực cho nhà Lê. Vì thế ông được phong làm Thượng thư bộ Hộ, bộ Công, tước Mai Lĩnh Hầu, rồi thăng tước Mai Quận Công. Ông là người nhiệt tình xây dựng quê hương, quan tâm đến đời sống dân làng. Tương truyền ông là người đem nghề dệt lụa về cho dân Phùng Xá và đem giống ngô về vùng sông Đáy, tạo nên một nông sản mới tại đây.

Ông mất năm 1613, thọ 85 tuổi. Nhân dân làng Phùng Xá lập đền thờ ông.

Ngô Trí Hòa (Giáp Tý, 1564- 1625)

Danh thần đời Lê Thái Tông, quê làng Lí Trai, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

Năm Nhâm Thìn 1592, ông đỗ hoàng giáp lúc 28 tuổi. Sơ bổ Án sát sứ Sơn Tây, rồi được chúa Trịnh Tùng tri ngộ, vời làm Đô cấp sự lại khoa. Sau thăng Hữu thị lang bộ Hình và ra làm Kí lục ở trấn Thanh Hóa.

Năm Giáp Thìn 1604, về kinh làm Tả thị lang bộ Lại, được phong tước Phú Lộc Bá. Năm 1606 đi sứ nhà Minh, khi về thăng thượng thư bộ hộ, kiêm Tế tửu Quốc tử giám (Mậu Thân 1608). Năm Canh Tuất 1610, được phong tước Phú Xuân Hầu.

Năm Mậu Ngọ 1618, ông dâng bản triều lên chúa Trịnh nêu 6 việc:

1. Xin sửa đức để cầu mệnh trời giúp
2. Răn trị bọn quyền hào để nuôi sức dân
3. Cấm những việc phiền hà để đời sống của dân đỡ khổ.
4. Bớt xa xỉ để không tiêu hao tài sản nhân dân,
5. Dẹp trộm cướp để dân được ở yên,
6. Sửa sang quân chính để bảo vệ sinh mạng của dân.

Năm Quý Hợi 1623, ông có công dẹp loạn ở Sơn Tây, được gia phong Thiếu bảo, phong Hiệp Mưu tá lý dục vân tán trị công thần.

Ông học thuật uyên bác, có tài trị nước an dân, trải phục ba triều, vua chúa đều tín nhiệm, sĩ phu trọng vọng.

Năm Ất Sửu 1625 ông mất, thọ 61 tuổi, được truy tặng Xuân Quận công.

Phạm Công Trứ (Canh Tý,1600- 1675)

Danh sĩ, đời Lê Thần Tông, quê làng Liêm Xuyên, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

Năm Mậu Thìn 1628, ông đỗ đồng tiến sĩ, lúc 28 tuổi. Buổi đầu ông làm Hiệu thảo Viện Hàn lâm, Thái thường tự khanh. Năm Mậu Ngọ 1642 ông ra làm Tán lí đạo Sơn Nam cùng với Thượng thư Nguyễn Duy Thể lo việc biên phòng. Do công dẹp an nhóm Trịnh Sầm nổi loạn, ông được vời về triều làm Phó đô ngự sử, tước Khánh Yến Bá, rồi thăng Đô ngự sử.

Năm Đinh Dậu 1657 ông làm Thượng thư bộ Lễ, tước Yên Quận Công, gia Thiếu bảo, kiêm Đại học sĩ Đông các. Sau ông coi sóc Quốc tử giám, rồi đổi làm Thượng thư bộ Lại (1662) và làm Tham tụng ở phủ chúa Trịnh.

Năm Mậu Thân 1668 ông về hưu, được phong Thái bảo, Quốc Lão. Năm Quý Mùi 1675 triều đình lại vời ông ra làm Tể tướng, coi việc cả 6 Bộ. Đến Ất Mão 1765 ông mất, thọ 75 tuổi, truy tặng Thái tể, thụy Kinh Tế.

Ông có sáng tác văn học, nghiên cứu lịch sử. Khoảng năm 1665, ông cùng một nhóm danh sĩ khảo duyệt và tục biên bộ Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên. Bộ sử này ông có soạn thêm từ đời Lê Trang Tông- gồm cả sử nhà Mạc- đến hết đời Lê Thần Tông (1527- 1662).

Nguyễn Quý Đức (Mậu Tý, 1648- 1720)

Danh sĩ đời Lê Hy Tông, có tên húy là Tộ, tự Thể Nhận, hiệu Đường Hiên, quên làng Thiêm Mễ, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông.

Năm Bính Thìn 1676 ông đỗ thám hoa, năm Canh ngọ 1690 sung chức Chính sứ sang Trung Quốc, khi về làm Tả thị lang bộ Lễ, rồi thăng làm Bồi tụng trong phủ Chúa Trịnh, tước Liêm Đường Bá. Năm 1695 thăng Đô ngự sử, rồi bị phạm lỗi, giáng làm Tả thị lang bộ Binh, nhưng vẫn giữ chức Bồi tụng.

Năm Giáp Ngọ 1714, cùng Đặng Đình Tướng được thăng Thiếu phó, Đinh Dậu 1717 ông về hưu, được gia phong Thái phó, Quốc lão.

Lúc đi sứ với Nguyễn Đình Sách (1690) ông soạn bộ Hoa Châu tập. Ông hợp tác với Lê Hy xem xét và sửa chữa bộ sử cũ, rồi viết nối từ đời Lê Huyền tông đến Gia Tôn (1663- 1675) bổ sung Bộ Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên.

Ông mất năm Canh Tý 1720 thọ 72 tuổi.

Nguyễn Nghiễm (Mậu Tý, 1708- 1775)

Danh thần đời Lê Thuần Tông, tự Hi Tự, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu Hồng Ngự cư sĩ, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm Tân Hợi 1731 ông đỗ Hoàng giáp lúc 23 tuổi (đỗ cử nhân năm 16 tuổi), Làm đến Thượng thư, sung chức Tham tụng, Đại tư đồ. Ông có công đánh dẹp ở nhiều nơi, làm Đại tư không, tước Xuân Quận Công, rồi trí sĩ (1771).

Năm Ất Mùi 1775 ông mất, thọ 67 tuổi, được truy phong Trung đẳng phúc thần.

Ông cùng Ngô Thì Sĩ có làm lời chú và lời bàn trong bộ Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên. Ngoài ra, ông còn soạn các tác phẩm: Quân trung liên vịnh; Việt sử bị lãm; Lạng Sơn đoàn thành đồ chí; Xuân đình tạp vịnh…. Nhà thơ Nguyễn Du là con thứ 7 của ông, con trưởng là Nguyễn Khản đã làm đến Tham tụng. Ông có nhiều bài phú rất hay còn được truyền tụng.

Phạm Đình Hổ (Mậu Tý, 1768- 1839)

Danh sĩ, đời Minh Mạng, tự Tùng Niên, Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Triều. Con quan Tham tri Phạm Đình Dư, nên tục gọi là Chiêu Hổ, quê xã Đan Loan, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

Ông đọc rộng biết nhiều, nhưng thi không đỗ, lại gặp thời loạn nên muốn ở ẩn. Năm Tân Tỵ 1821 vua Minh Mạng vời ông ra và bổ làm Hành tẩu viện Hàn lâm, ít lâu ông từ chức.

Năm Bính Tuất 1826, Minh Mạng lại triệu và cho làm Thừa chỉ Viện Hàn lâm và Tế tửu Quốc tử giám, nhưng năm sau ông cũng xin nghỉ dưỡng bệnh rồi từ chức. Sau ông trở lại nhận chức vụ cũ, được thăng Thị giảng học sĩ, đến Nhâm Thìn 1832 ông về hưu luôn.

Năm Kỷ Hợi 1839 ông mất, thọ 71 tuổi.

Bình sinh ông cùng Hồ Xuân Hương thường làm thơ bỡn cợt, còn truyền làm giai thoại. Các tác phẩm chính của ông: Lê triều hội điển, Bang giao điển lệ, An Nam chí, Ai Lao sứ trình, Đạt Man quốc địa đồ (tức Chân Lạp địa đồ)…

Hoàng Diệu (Mậu Tý, 1828- 1882)

Chí sĩ yêu nước, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Trước vốn tên Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý 1828, đỗ cử nhân khoa Mậu Thân 1848 và phó bảng khoa Quí Sửu 1853, lúc 25 tuổi.

Sơ bổ Tri huyện Tuy Phước (Bình Định), rồi thăng Tri phủ Tuy Viễn cũng trong tỉnh Bình Định. Sau đó ông phải giáng, đổi về Tri huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ít lâu thăng Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, rồi Bố chính Bắc Ninh. Ông nổi tiếng công minh và thanh liêm. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng.

Năm Đinh Sửu 1877, ông về Huế làm Tham tri bộ HÌnh, qua Tham tri bộ Lại, coi việc Đô sát và dự vào viện Cơ mật. Năm sau, làm Tuần vũ Quảng Nam, rồi Tổng đốc An Tịnh. Chẳng bao lâu ông được triều đình ủy nhiệm chức Phó toàn quyền Đại thần để hiệp thương với sứ bộ Y Pha Nho (Tây Ban Nha).

Canh Thìn 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh, gồm coi cả việc thương chính.

Đầu năm Nhâm Ngọ 1882, đại tá Pháp Henri Rivière đem quânn ra cướp miền Bắc. Ông bất bình, chỉ huy quân sĩ quyết liệt đối phó. Trước hỏa lực của quân cướp nước và một số lãnh binh bỏ thành chạy, Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 50 tuổi.

Nguyễn Trường Tộ (Mậu Tý, 1828- 1871)

Chí sĩ, Danh sĩ, Kiến trúc sư, quê làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, cha mất sớm, ông theo học chữ Hán với cụ Tú Giai. Năm 1855, nhà thờ xứ Tân Ấp mời ông dạy chữ Hán, từ đó ông học chữ Pháp và Quốc ngữ với các giáo sĩ. Năm 1858 ông sang Pháp. Ba năm sau (1861) ông về nước. người Pháp có ý dùng ông làm tay sai nhưng ông từ chối, quyết định ở ẩn nơi quê nhà. Ông lần lượt gửi lên triều đình nhiều bài điều trần giá trị, đề nghị chính quyền cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục….

Năm Tân Mùi 1871 ông mất hưởng dương 44 tuổi.

Ông để lại hơn 14 bản trần tình khá về quốc kế dân sinh và khá nhiều bài thơ hay được truyền tụng.

Huỳnh Thúc Kháng (Bính Tý, 1876 – 1947)

Chí sĩ, học giả, quê làng Thanh Bình, tổng Tiền Giang Phương, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Năm Canh Tý (1900) ông đỗ Giải Nguyên. Năm giáp Thìn đỗ Hoàng Giáp (năm 28 tuổi). Ông không ra làm quan, mà nhiệt thành lo việc nước, thương dân, kết bạn thâm tình với các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Chinh, Trần Quý Cáp. Ông bị bắt năm Mậu Thân (1908), bị đầy Côn Đảo suốt 13 năm (1908-1921) mới được thả tự do vì ông là một trong những lãnh đạo phong trào Duy Tân.

Tôn Đức Thắng (Mậu Tý, 1888-1980)

Nhà cách mạng, sinh ngày 20-8-1888 quê xã Mỹ Hòa Hương, tổng Dinh Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, An Giang).

Thuở nhỏ ông học ở quê nhà, năm 1906 lên Sài Gòn học nghề tại trường Bách Công rồi làm việc ở sở Ba Son, năm 1913 theo tàu biển sang Pháp làm công nhân ở Tp. Toulon. Cuối năm 1919 ông bị trục xuất khỏi đất Pháp vì ủng hộ cách mạng Nga năm 1917, trở về sống và làm công nhân ở Sài Gòn.

Những năm 1920-1925 ông tham gia lập công hội bí mật ở xưởng đóng tàu Ba Son. Năm 1927 tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Cuối năm 1928 ông bị Pháp bắt nhân vụ án ở đường Barbier Sài Gòn, bị kết án 20 năm khổ sai lưu đày Côn Đảo. Đến ngày 23-9-1945 mới được trả tự do. Về đất liền, ông tiếp tục hoạt động đến tháng 10 năm 1945 thì tham gia Xứ uỷ Nam bộ rồi năm 1946 đắc cử vào Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1951, ông được bầu vào Ban Chấp hành TW Đảng Lao động Việt Nam. Tháng 7 năm 1960 ông giữ chức Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969, đến ngày 23-9-1969 ông được giữ chức Chủ tịch nước cho đến khi từ trần. Ngày 30-3-1980 ông mất tại Hà Nội, thọ 92 tuổi. Do công lao, ông được Đảng, Chính phủ Việt Nam và các nước XHCN tặng nhiều huân chương cao quý.

Nguyễn Tất Đạt – Nguyễn Sinh Khiêm (Mậu Tý, 1888-1950)

Chiến sĩ Văn Thân chống Pháp, còn có tên là Nguyễn Sinh Khiêm, con trai đầu chí sĩ, phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sinh Sắc), anh ruột Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguyễn Tất Thành), quê làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, sinh năm 1888.

Thuở nhỏ ông cùng em ruột theo thân phụ vào Huế học tập. Đến cuối thế kỉ XIX ông về quê tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức của nhà yêu nước Lê Quyên (Đội Quyên), Hồ Sỹ Phấn (Đội Phấn) nên bị Pháp bắt năm 1941, bị kết án tù đày đi Quảng Ngãi, Khánh Hòa một thời gian dài.

Năm 1920, Pháp chuyển ông về giam tại Huế, đến năm 1940 ông về lại được quê nhà Nam Đàn. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ông vẫn sinh sống tại quê nhà, đến cuối năm 1946 ông mới ra Hà Nội gặp lại người em của mình lúc bấy giờ là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ông mất năm 1950 tại Nam Đàn, thọ 62 tuổi.

Tôn Quang Phiệt (Canh Tý, 1900-1973)

Nhà hoạt động cách mạng, nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội, quê xã Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An. Thuở nhỏ ông học ở Vinh, năm 1923 ra Hà Nội học ở trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương. Tại đây, ông tham gia vận động tổ chức đảng Phục Việt (sau đổi là Tân Việt, tiền thân của Đông Dương Cộng sản liên đoàn). Ông lãnh nhiệm vụ thành lập tại Hà Nội một chi bộ đầu tiên. Năm 1926, ông đang học năm thứ hai thì bị tình nghi nên bị đuổi học. Tháng 6-1926, ông cùng các ông Trần Phú, Vương Thúc Oánh sang Trung Quốc gặp các nhân vật trong Việt Nam cách mạng Đảng, phái đoàn vừa đến Móng Cái thì bị bắt.

Một thời gian sau, ông được trả tự do, vẫn hoạt động bí mật cho Đảng. Cách mạng Tháng Tám rồi toàn quốc kháng chiến, ông đại biểu Quốc hội, Tổng thư kí uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ông được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương. Ngày 1-12-1973 ông mất tại Hà Nội.

Nguyễn Văn Cừ (Nhâm Tý, 1912-1941)

Liệt sĩ cách mạng, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Sinh ngày 2-7-1912. Quê thôn Cẩm Giàng, xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1927, lúc đang đi học tại trường Bưởi, Hà Nội, ông tham gia vào tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Do hoạt động bí mật, ông bị thực dân Pháp đuổi học. Tháng 6-1929, ông được kết nạp vào chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Hà Nội. Sau khi thành lập Đảng (3-2-1930), ông làm bí thư đầu tiên Đặc khu Hồng Gai, Uông Bí. Hoạt động ở đây được một thời gian, ông bị Pháp bắt, kết án khổ sai rồi đày ra Côn Đảo.

Năm 1936, ông được trả tự do về sống ở Hà Nội tiếp tục hoạt động bí mật. Tháng 9-1937, ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư đảng Cộng sản Đông Dương. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình. Ngày 28-8-1941, ông bị thực dân Pháp xử bắn tại Bà Điểm, huyện Hóc Môn (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Tại pháp trường, ông đã kiên quyết xé tấm băng đen bịt mắt và hô lớn: “Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm” rồi gục ngã xuống trước làn đạn địch. Ông hi sinh lúc 29 tuổi.

Tô Hiệu (Nhâm Tý,1912-1944)

Liệt sĩ cách mạng. Quê làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Dương. Tuổi nhỏ ông học chữ Hán, sau học trường Pháp – Việt, Hải Dương rồi học ở Hà Nội. Năm 1929, ông vào Sài Gòn hoạt động cùng anh ruột là Tô Chấn Trung. Năm 1930, ông bị bắt, đày ra Côn Đảo. Tại đây, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1934, ông được trả tự do về hoạt động tại Hà Nội. Năm 1938, ông phụ trách các tỉnh duyên hải Bắc kỳ và là Bí thư thành uỷ Hải Phòng, đến tháng 12 năm 1939, ông bị bắt và đày lên Sơn La. Tại đây ông bị nhiều cực hình, bệnh nặng nên qua đời ngày 7-3-1944, hưởng dương 32 tuổi.

Phạm Hùng (Nhâm Tý, 1912-1988)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tên thật là Phạm Văn Thiện, sinh ngày 11-6-1912 tại xã Long Hồ, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1928-1929, ông là thành viên trong tổ chức “Nam kỳ học sinh Liên hiệp hội” và “Thanh niên cộng sản Đoàn”. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị bắt và kết án tử hình, sau hạ thành án chung thân, khổ sai, đày đi Côn Đảo. Năm 1946, làm Bí thư xứ uỷ lâm thời Nam bộ. Năm 1951, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, sau đó được chỉ định làm uỷ viên Trung ương cục miền Nam với chức vụ phó bí thư, rồi làm Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hành chính, phân liên khu miền Đông Nam bộ năm 1952. Năm 1956, ông được bầu vào uỷ viên Bộ chính trị. Năm 1957 làm Bộ trưởng.

Năm 1975, ông làm chính uỷ bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau, ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1980). Từ tháng 6-1987, ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Ngày 10-3-1988, ông mất đột ngột vì bệnh tim, thọ 76 tuổi. Ông được Nhà nước tặng nhiều danh hiệu cao quý trong đó có Huân chương Sao Vàng.

Nguyễn Trọng Trí – Hàn Mặc Tử (Nhâm Tý, 1912-1940)

Nhà thơ, bút danh Hàn Mặc Tử. Ông sinh ngày 12-9-1912 tại Lệ Mỹ (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Từ năm 1930-1931, ông làm thơ và bắt đầu có tiếng, nhất là một số bài thơ Đường luật như Thức khuya, được Phan Bội Châu khen là họa. Ông mất ngày 11-11-1940, hưởng dương 28 tuổi. Ông còn để lại cho đời nhiều tập thơ xuất sắc.

Nguyễn Trọng Nhâm – Xuân Thuỷ (Nhâm Tý, 1912-1985)

Nhà hoạt động cách mạng, nhà thơ, bút danh Xuân Thuỷ. Ông sinh ngày 2-9-1912 tại xã Xuân Phương, Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Lúc nhỏ, học tại Hà Nội, tham gia các tổ chức yêu nước chống Pháp. Năm 1932, ông tích cực hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. Ông bị Pháp bắt giam nhiều lần nhưng vẫn đấu tranh trong nhà tù nên được thả tự do. Sau cách mạng tháng 8-1945, ông lần lượt được đề cử giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Chính phủ. Ông mất ngày 18-6-1985 tại Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.

Phạm Thư – Trần Duy Hưng (Nhâm Tý, 1912-1988)

Bác sĩ, nhà hoạt động xã hội, chính trị, tên thật là Phạm Thư, tên thường dùng là Trần Duy Hưng, sinh ngày 16 tháng giêng năm 1912, tại xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội. Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, sau đó du học ở Pháp. Tốt nghiệp, ông về nước hành nghề bác sĩ tại TP Hà Nội, từng tham gia hoạt động xã hội trong các tổ chức cứu tế ở Hà Nội.

Sau cách mạng tháng 8-1945, ông được chính quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính đầu tiên của Hà Nội. Năm 1946, ông được đắc cử đại biểu Quốc hội khóa I. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ như: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, uỷ viên nội vụ trong Hội đồng quốc phòng.

Sau hiệp định Gienèver, ông về tiếp quản Hà Nội, vẫn giữ chức Chủ tịch Uỷ ban hành chính và Uỷ ban nhân dân TP. Hà Nội, liên tục từ năm 1957-1977. Ông mất năm 1988, thọ 76 tuổi.

Phạm Quang Thanh – Phạm Kiệt (Nhâm Tý, 1912-1975)

Tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam, từng là đội trưởng đội du kích Ba Tơ. Tư lệnh kiêm chính uỷ lực lượng công an nhân dân vũ trang. Quê xã An Phú, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1929, trong tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Năm 1931 bị Pháp bắt, kết án tù chung thân, đầy lên Buôn Mê Thuật. Sau cách mạng tháng 8-1945, ông hoạt động và được cử giữ chức vụ quan trọng trong Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa III, IV, được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Ông mất năm 1975, thọ 63 tuổi.

Tôn Thất Tùng (Nhâm Tý,1912-1982)

Bác sĩ y khoa, Anh hùng Lao động. Quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ, ông học ở Huế, Hà Nội, tốt nghiệp Y khoa bác sĩ, làm việc ở các bệnh viện Hà Nội. Sau cách mạng tháng 8-1945, ông được cử làm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn, Hà Nội. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm cố vấn phẫu thuật ngành quân y ở Bộ Quốc phòng. Năm 1947, làm thứ trưởng Bộ Y tế. Từ năm 1954, ông là Giám đốc bệnh viện Việt Đức, Giáo sư tại trường Đại học Y khoa Hà Nội. Ông là Đại biểu Quốc hội nhiều khóa liên tục.

Do cống hiến của ông trong lĩnh vực y học, ông được Chính phủ Việt Nam tặng nhiều huân chương cao quý. Ngày 7-5-1982, ông mất tại Hà Nội, thọ 70 tuổi.

Theo BẢO TÀNG LỊCH SỬ

Tags: , ,