Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng những loài chim sả đẹp nhất thế giới

Trong thế giới chim chóc, bộ Sả (Coraciiformes) gồm những nhóm chính là bói cá, bồng chanh, sả và trảu, quy tụ những loài chim có màu sắc rất ấn tượng.Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng những loài chim sả đẹp nhất thế giới

Ảnh: eBird.

Bói cá cổ áo (Todiramphus chloris) dài 25-28 cm, được ghi nhận ở các vùng bờ biển từ Nam châu Á tới Thái Bình Dương. Chúng thường được nhìn thấy trong các rừng đước, nơi có nguồn thức ăn dưới nước phong phú.

Bói cá xanh lục (Chloroceryle americana) dài 18-20 cm, phân bố ở vùng nhiệt đới châu Mỹ. Loài này lao từ trên xuống để lặn và bắt cá hoặc côn trùng dưới nước. Chúng thường đậu trên các tảng đá trong lòng suối.

Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng những loài chim sả đẹp nhất thế giới

Bồng chanh (Alcedo althis) dài 16-17 cm, phân bố rộng ở lục địa Á – Âu và Bắc Phi. Loài chim này là đại diện tiêu biểu của nhóm bồng chanh nhỏ đuôi ngắn Cựu thế giới.

Bồng chanh lưng xanh (Alcedo azurea) dài 17-19 cm, sống tại các lạch và rừng ngập mặn ở New Guinea và Australia. Giống các loài bồng chanh khác, chúng làm tổ trong các hốc dọc bờ sông.

Bồng chanh nhỏ (Alcedo pusilla) dài 12-13 cm, phân bố ở Australia. Loài chim nhỏ xíu sống trong rừng ngập mặn này ăn cá nhỏ, ấu trùng côn trùng và giáp xác nhỏ.

Bồng chanh lùn đầu đỏ (Ceyx pictus) dài 12-13 cm, , phân bố ở châu Phi. Khác với đa số các loài bồng chanh họ hàng, chúng sống trong rừng và đồng cỏ xa nguồn nước, chủ yếu ăn côn trùng.

Sả rừng đuôi vợt (Coracias spatulatus) dài 36-38 cm, được ghi nhận ở Đông Phi. Chúng có ngoại hình dễ nhận biết với cái đuôi chẻ, chót lông đuôi ngoài có hình dạng như cái vợt.

Sả rừng ngực hoa cà (Coracias caudatus) dài 32-36 cm, phân bố ở châu Phi. Như các loài sả rừng khác thuộc chi Coracias, loài này săn mồi trên mặt đất. Chúng nhào xuống bắt thằn lằn, động vật gặm nhấm và động vật không xương sống lớn.

Sả đầu nâu (Halcyon smyrnensis) dài 29 cm, phân bố ở miền Nam châu Á. Giống như nhiều loài sả khác, loài chim này khá ồn ào. Tiếng kêu của chúng giống tiếng người cười hoặc tiếng ngựa hí.

Sả thiên đường đuôi trắng (Tanysiptera sylvia) dài 30-35 cm, phân bố ở Newguinea và Bắc Australia. Loài này cùng một số loài họ hàng chuyên làm tổ trong các lỗ của ụ mối trên ngọn cây.

Sả đuôi trĩ chỏm xanh (Momotus momota) dài 41 cm, có phạm vi sinh sống bao gồm hầu hết diện tích rừng rậm Amazon. Đâu là loài điển hình của họ Sả đuôi trĩ ở vùng nhiệt đới châu Mỹ.

Sả đuôi trĩ hung (Baryphthengus martii) dài 46 cm, phân bố ở Trung Mỹ và phía Bắc Nam Mỹ. Giống các loài sả đuôi trĩ khác, loài này dùng mỏ chắc khỏe để đột kích côn trùng lớn và động vật có xương sống nhỏ.

Sả đuôi trĩ lông mày ngọc lam (Eumomota superciliosa) dài 33 cm, phân bố ở Trung Mỹ. Như các loài họ hàng, chúng có hai lông đuôi dài hình vợt ở phần chót, tạo thành từ các sợi tơ móc yếu.

Sả Jamaica (Todus todus) dài 11 cm, là loài đặc hữu trong rừng Jamaica. Loài chim nhỏ xíu màu xanh tươi này dùng mỏ dẹt để bắt côn trùng khi bay.

Trảu đa sắc (Merops ornatus) dài 23 cm, là loài trảu duy nhất của Australia. Các quần thể ở xa nhất về phía Nam của loài này di trú về phía Bắc để trú đông ở Bắc Australia và Indonesia.

Trảu châu Âu (Merops apiaster) dài 25-29 cm, phân bố ở Tây Nam lục địa Á – Âu và châu Phi. Tương tự các loài trảu khác, loài này bắt côn trùng khi bay. Trước khi ăn ong, chúng tách ngòi độc khỏi con mồi một cách khéo léo.

Trảu họng trắng (Merops albicollis) dài 20-32 cm, hiện ở phía Nam sa mạc Sahara, châu Phi. Các loài trảu, bao gồm loài này, thường làm tổ ở các đường hầm trong bờ cát.

Theo TRI THỨC & CUỘC SỐNG

Tags: , , ,