Lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Lịch sử Việt Nam đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản

Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào “vô sản hóa” cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những ng¬ười lãnh đạo trong Kỳ bộ ” Bắc Kỳ những học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được đòi hỏi ” của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.

Tháng 3/1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Ở Việt Nam.

Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3/1929 trong đồn điền Bô ren (Sơn Tây) đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN đã hết vai trò lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ ” đấu tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai ” hội I Hội VNCMTN. 1 Đầu tháng 5/1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.

Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1/6/1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích lý do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.

Đêm 17/6/1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất của Đảng : “Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản”.

Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8/1929(7), xuất bản báo ĐỎ làm cơ quan ngôn luận của mình.

Cùng với quá trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đởi của hai tổ chức cộng sản, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng. Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9/1929, ra “Tuyên đạt” tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng “1iên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắcvà duy nhất”. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27/10/1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3/2/1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là ‘đội tiền phong của vô sản giai cấp” chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ …

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông… để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24/2/1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx-Lenin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo LỊCH SỬ VIỆT NAM

Tags: ,