Chùm ảnh: Choáng ngợp với vẻ đẹp của các loài ốc biển

Mang những hình thù kỳ lạ và hoa văn huyền ảo, vỏ ốc biển là vật phẩm sưu tầm ưa thích của rất nhiều người trên thế giới. Cùng điểm qua một số loài ốc biển ấn tượng nhất.Chùm ảnh: Choáng ngợp với vẻ đẹp của các loài ốc biển nổi tiếng

Ốc đụn cái (Tectus niloticus) dài 8-12 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Có lớp xà cừ dày, loài ốc biển này được khai thác với số lượng lớn để làm đồ trang sức, quà lưu niệm hoặc thực phẩm.

Ốc mõ chùa da hổ hay ốc sứ vân hổ (Cypraea tigris) dài 10-15 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Các thủy thịt ở áo loài ốc này bọc quanh vỏ nhẵn khi chúng bò. Loài này săn các động vật không xương sống khác.

Chùm ảnh: Choáng ngợp với vẻ đẹp của các loài ốc biển nổi tiếng

Ốc xoắn vạch (Epitonium scalare) dài 3-7 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Có hàm dưới cấu tạo như lưỡi cắt, chúng ăn hải quỳ và san hô.

Ốc bàn chân bồ nông (Aporrhais pespelecani) dài 30-42 cm, cư trú ở biển Bắc và Địa Trung Hải. Là loài sống trong bùn, chuyên ăn chất hữu cơ phân hủy, chúng có một phần vỏ xòe ra như bàn chân có màng.

Ốc bẹ hồng (Strombus gigas) dài 15-31 cm, phân bố ở Tây Đại Tây Dương. Loài ốc biển nhiệt đới ăn thực vật này có phần môi loe ở vỏ, bên trong có màu hồng.

Ốc mặt trời gai (Stellaria solaris) dài 6-13 cm, cư trú ở các vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Chúng gắn các vật thể như đá cuội và vỏ của các loài thân mềm khác vào vỏ của chúng để ngụy trang.

Ốc thanh long gai Thái Bình Dương (Drupa ricinus) dài 2-3 cm, sống trên các rạn san hô Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Con mồi của chúng là giun nhiều tơ.

Ốc cối hoa lưới (Conus textile) dài 9-15 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Loài này dùng lưỡi bào để đâm con mồi và tiêm nọc độc. Nọc của chúng có thể nguy hiểm với con người.

Ốc tù và bông (Charonia tritonis) dài 10-50 cm, sống ở vùng gian triều nhiệt đới Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Loài này ăn thịt các động vật không xương sống khác. Những chiếc vỏ lớn của chúng được dùng làm tù và, một nhạc cụ thổi.

Ốc đàn hạc hoàng đế (Harpa costata) dài 6-11 cm, được ghi nhận ở Ấn Độ Dương. Sống trong cát, chúng bắt cua bằng phần chân rộng và tiêu hóa loài giáp xác này bằng nước bọt.

Ốc ruốc (Umbonium vestiarium) dài 0,5-2 cm, sống trong cát ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Có màu sắc và hoa văn rất đa dạng, chúng là đối tượng sưu tầm ưa thích của một số người.

Ốc gai lược (Murex pecten) dài 10-15 cm, là loài bản địa ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Vỏ loài ốc này có một rãnh hình ống rất dài, toàn thân có những dãy gai dài như gai lược.

Ốc sọ dừa (Cymbiola nobili) dài 5-22 cm, sinh sống ở vùng biển Đông Nam Á. Số lượng của loài ốc biển có hoa văn đẹp này đã suy giảm mạnh trong tự nhiên do bị khai thác làm thực phẩm, đồ lưu niệm phục vụ khách du lịch.

Ốc sọ dừa mũ vua (Cymbiola imperialis) dài 7-25 cm, được tìm thấy ở vủng biển Sulu, Philippines. Loài này có những chiếc gai dọc theo đường xoắn của vỏ. Hiếm gặp và có hình thù độc đáo, chúng là vật phẩm sưu tầm có giá trị cao.

Ốc kim khôi đỏ (Cypraecassis rufa) dài 12-17 cm, xuất hiện ở các vùng biển nhiệt đới, nhiều nhất ở Đông Phi và Đông Nam Á. Chúng sống ở vùng nước nông gian triều, săn nhum biển gai ngắn.

Ốc kim khôi vàng (Cassis cornuta), dài 5-40 cm, xuất hiện ở biển Đỏ, Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển phía Nam châu Phi và Thái Bình Dương. Lớn nhất trong các loài ốc kim khôi, chúng có cái vỏ dày, nặng và nhiều gai.

Ốc bàn tay (Harpago chiragra) dài 8-30 cm, phổ biến ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Loài này sống ở rạn san hô, ăn thực vật và tảo. Vỏ của chúng có 6 phần loe ra như những ngón tay. Chúng được khai thác làm thực phẩm và đồ mỹ nghệ.

Ốc giác (Melo melo) dài 15-35 cm, phân bố ở Đông Nam Á. Loài ốc này tạo ra một loại ngọc màu cam, có giá trị rất cao trên thị trường quốc tế. Ngoài ra chúng cũng được khai thác để làm thực phẩm.

Ốc gai trắng (Chicoreus ramosus) dài 10-33 cm, được tìm thấy ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương. Ở Ấn Độ, loài ốc này là một nguồn thực phẩm có giá trị.

Ống giấm (Tonna dolium) dài 10-18 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Tây Thái Bình Dương. Vỏ của loài ốc này có các khía chạy song theo đường xoắn ốc, mỏng và nhẹ hơn đa số loài ốc biển khác.

Ốc xà cừ xanh (Turbo marmoratus) dài 8-22 cm, phân bố ở vùng biển Đông Ấn Độ, Đông Nam Á và Bắc Australia. Với lớp vỏ có lớp xà cừ rất dày, chúng được đánh bắt như một nguồn cung cấp xà cừ phục vụ ngành chế tác đồ trang sức.

Ốc giun Caribbean (Vermicularia spirata) dài 3-16 cm, phân bố ở vùng biển Caribbean. Cá thể đực của chúng có dạng xoắn lỏng, trôi nổi tự do trước khi bám vào một giá thể, thường là hải miên. Sau đó chúng phát triển thành cá thể cái có kích thước lớn hơn, sống cố định một chỗ.

Ốc tháp lớn (Turritella terebra) dài 6-17 cm, sống trong trầm tích bùn ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Loài này sống bằng cách lọc thức ăn trong nước. Chúng thuộc một nhóm ốc có nhiều tên gọi khác nhau như ốc xoắn hay ốc mũi khoan.

Ốc dùi (Terebra subulata) dài 7-20 cm, được tìm thấy ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Tiêu biểu cho các loài ốc mũi khoan có vân trẻn vỏ, chúng đào khoan qua lớp cát bè mặt để bắt giun.

Ốc măng (Mitra mitra) dài 10-15 cm, phân bố rộng ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Là kẻsăn mồi, loài ốc có hình dáng dễ nhận biết này tích cực săn các loài ốc nhỏ hơn ở vùng biển nông.

Ốc mỏ chim Undatus (Cyrtulus undatus) dài 6-25 cm, phân bố ở Ấn Độ Dương – Tây Thái Bình Dương. Là loài ăn thịt, chúng săn các loài thân mềm khác cùng giun và bọ biển.

Ốc kèn Australia (Syrinx aruanus) dài 20-90 cm, được ghi nhận ở vùng biển Bắc Australia. Là loài động vật chân bụng có vỏ lớn nhất thế giới, chúng có thể nặng tới 18 kg. Do kích thước lớn, chúng rất nổi tiếng trong giới sưu tầm vỏ ốc biển.

Theo TRI THỨC & CUỘC SỐNG

Tags: , ,