Các trận hải chiến kinh điển thế giới: 7 – Cuộc chiến sông Nile

Cuộc sông Nile hay còn gọi là hải chiến vịnh Aboukir diễn ra từ ngày 1 – 3/8/1798, là một trong những trận hải chiến nổi tiếng nhất châu Âu thời cận đại (thế kỷ XIX).

Trận đánh là đỉnh cao của một chiến dịch hải quân đã diễn ra trên Địa Trung Hải trong suốt ba tháng trước đó, một đoàn quân viễn chinh lớn của Pháp khởi hành từ Toulon để đến Alexandria, lực lượng viễn chinh do Napoléon Bonaparte chỉ huy đã bị đánh bại bởi lực lượng của Anh do Đô đốc Horatio Nelson chỉ huy.

Trận chiến sông Nile đến từ kết quả của các Chiến dịch của Napoleon tại Ai Cập, một cuộc xâm lược lớn vào Ai Cập trung lập kiểm soát bởi Ottoman bằng một đội quân Pháp theo sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte.

Bối cảnh

Người Pháp đã phát động các chiến dịch trong một nỗ lực nhằm thiết lập sự hiện diện thường trú của họ ở Trung Đông và cắt đứt chuỗi giao tiếp mà chúng kết nối Anh – một trong những đối phương chủ yếu còn lại của Pháp trong Chiến tranh cách mạng Pháp – với thuộc địa Anh ở Ấn Độ.

Ấn Độ là một phần thiết yếu của Đế quốc Anh: Các liên kết thương mại đã tạo ra sự giàu có cho nước Anh yêu cầu phải theo đuổi các cuộc chiến tranh cho tới khi thành công. Bonaparte tin rằng bằng cách thiết lập một thuộc địa thường trú tại Ai Cập người Pháp có thể sử dụng quốc gia này như là một điểm bắt đầu cho các chiến dịch trong tương lai đối với Ấn Độ, và khi thành công có thể đẩy Anh khỏi chiến tranh.

Hội đồng Đốc chính Pháp đồng ý với kế hoạch của Bonaparte, mặc dù một nhân tố chính trong quyết định của họ là một mong muốn để đẩy Bonaparte, một chính khách đầy tham vọng và quyết liệt cùng với các cựu chiến binh trung thành từ các chiến dịch tại nước Ý của ông ra càng xa nước Pháp càng tốt.

Khi Liên minh thứ nhất kết thúc vào năm 1797 sau chiến thắng của Bonaparte với Đế quốc Áo ở miền Bắc Ý, nước Anh vẫn đang là một quốc gia có quyền lực lớn tại châu Âu và đang có chiến tranh với Cộng hòa Pháp.

Hội đồng Đốc chính Pháp tiến hành nhiều chiến thuật khác nhau để bắt buộc người Anh phải chấp nhận hòa bình, bao gồm dự định các cuộc xâm lược vào Ai-len và nước Anh, và việc mở rộng của Hải quân Pháp thách thức sức mạnh của Anh ở trên biển. Bất chấp những nỗ lực đáng kể đó, người Anh kiểm soát vùng biển Bắc Âu để đáp lại những tham vọng không thực tế trong ngắn hạn.

Tuy vậy, trong khi người Anh vẫn vững chắc trong việc kiểm soát của Đại Tây Dương, Hải quân Pháp đã chiếm ưu thế trong Địa Trung Hải. Sau tuyên bố chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha, Hải quân Hoàng gia rút khỏi Eo biển Gibraltar năm 1796. Quyết định này cho phép Bonaparte đề xuất cuộc xâm lược vào Ai Cập như một cách thay thế để đối đầu trực tiếp với ng ười Anh, ông ta tin rằng họ (người Anh) sẽ quá phân tâm bởi một cuộc nổi dậy sắp xảy ra ở Ailen nên không thể can thiệp tại Địa Trung Hải.

Trong suốt mùa xuân năm 1798, Bonaparte đã tập hợp trên 35.000 binh sĩ ở Địa Trung Hải thuộc vùng của Pháp và Ý, và phát triển một hạm đội mạnh tại Toulon. Ông cũng thành lập Commission des Sciences et des Arts, một cơ chế của các nhà khoa học và kỹ sư cho mục đích thành lập các thuộc địa Pháp tại Ai Cập. Các điểm đến của đoàn thám hiểm đã được giữ bí mật hàng đầu; phần lớn các sĩ quan quân đội đã không biết các mục tiêu sẽ đến của mình, và tự Bonaparte đã không tiết lộ công khai mục tiêu của mình cho đến giai đoạn đầu tiên của đoàn viễn chinh được hoàn tất.

Chiến dịch Địa Trung Hải của Napoléon

Hạm đội Armada của Bonaparte khởi hành vào ngày 19/5/1798, rời Toulon và tiến nhanh chóng xuyên qua biển Ligure, thu thập thêm tàu bè tại Genoa và giương buồm về phía nam dọc theo bờ biển Sardinia, qua Sicily ngày 07/6. Ngày 9/6 hạm đội đến ngoài khơi Malta, đây thuộc sở hữu của các hiệp sỹ thánh St John của Jerusalem, cai trị bởi Ferdinand von Hompesch zu Bolheim.

Bonaparte yêu cầu hạm đội của ông được phép đi vào cảng đã được phòng bị Valetta, và yêu cầu bị từ chối người Pháp phản ứng bằng cách mở một cuộc xâm lược quy mô lớn vào quần đảo Malta, nhanh chóng đè bẹp lực lượng phòng thủ sau 24 giờ chiến đấu. Các hiệp chính thức đầu hàng vào ngày 12/6 và để đổi lấy tiền đền bù tài chính đáng kể và chuyển giao các đảo cùng tất cả các nguồn lực của họ cho Bonaparte, bao gồm cả các tài sản rộng lớn của Giáo hội Công giáo La Mã trên đảo Malta.

Trong vòng một tuần Bonaparte đã cung cấp đầy đủ cho tàu của ông, và ngày 19/6 hạm đội của ông ta rời đến Alexandria theo hướng Crete, để lại 4.000 lính ở Valetta để đảm bảo quyền kiểm soát của Pháp tại các đảo.

Trong khi Bonaparte giương buồm đến Malta, Hải quân Hoàng gia (Anh) đã thâm nhập trở lại Địa Trung Hải lần đầu tiên sau hơn một năm. Bị báo động bởi các báo cáo bởi công tác chuẩn bị của người Pháp trên bờ biển Địa Trung Hải, Lord Spencer tại bộ hải quân gửi thư đến cho Phó đô đốc Earl St Vincent, chỉ huy của Hạm đội Địa Trung Hải trụ sở tại sông Tagus, mau lẹ điều một hải đội để đi điều tra.

Hải đội này gồm ba tàu tiền tuyến và ba tàu khu trục, được giao phó cho Chuẩn đô đốc Sir Horatio Nelson. Nelson là một viên chức rất thành công, người đã bị mù một mắt trong thời gian chiến đấu tại Corse vào năm 1794, đã nhận được khen thưởng của mình cho việc bắt sống hai tàu tiền tuyến của Tây Ban Nha tại trận Cape St Vincent trong tháng 2/1797, nhưng sau đó lại bị mất một cánh tay tại Trận Santa Cruz de Tenerife trong tháng 7/1797.

Trở về với đội tàu tại Tagus vào cuối tháng 4, ông đã nhận lệnh thu thập hải đội tại Gibraltar và căng buồm tới vùng biển Ligure. Vào ngày 21/5, hải đội của Nelson tiếp cận Toulon, và nó đã bị đánh tơi bời bởi một cơn bão khốc liệt và chiếc kỳ hạm của Nelson HMS Vanguard mất chiếc cột buồm của nó và gần như bị đắm tại bờ biển Corsica.

Hải đội nằm rải rác, các tàu tiền tuyến tạm nằm tại San Pietro Island ngoài khơi Sardinia, trong khi các tàu khu trục bị thổi về phía tây và không quay lại được.

Ngày 07/6, sau sửa chữa vội vã kỳ hạm của mình, Nelson quay lại ngoài khơi Toulon với một đội mười tàu tiền tuyến và một tàu hạng tư. Hạm đội dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Thomas Troubridge, và được gửi từ Earl St Vincent để củng cố cho lực lượng của Nelson với các mệnh lệnh là ông phải theo đuổi đoàn Toulon và ngăn chặn nó.

Mặc dù bây giờ đã có tàu, đủ để thách thức hạm đội Pháp, Nelson lại còn có hai nhược điểm quan trọng: ông không có tình báo về đích đến của Pháp, và không có các tàu khu trục để chạy phía trước các lực lượng của ông. Chạy thẳng về phía nam với hy vọng thu thập thông tin về các chiến dịch của người Pháp, tàu của Nelson dừng lại tại Elba và Napoli, nơi mà đại sứ Anh Sir William Hamilton thông báo rằng hạm đội Pháp đã đi qua Sicily theo hướng Malta.

Ngày 22/6, Nelson gặp phải một thuyền hai buồm brig từ Ragusa và được biết, Pháp đã cho tàu từ Malta đi về phía đông, ngày 16 tháng Sáu. Sau khi xác nhận với thuyền trưởng của mình, đô đốc quyết định rằng mục tiêu của Pháp phải là Ai Cập và quyết định theo đuổi. Tin tưởng một cách không chính xác rằng ng ười Pháp đã đi được năm ngày trước đó chứ không phải là hai ngày, Nelson quyết định đi theo một đường thẳng trực tiếp tới Alexandria mà không có độ lệch nào.

Tối ngày 22/6, hạm đội của Nelson vượt qua hạm đội Pháp trong bóng tối, vượt qua những đoàn tầu chở đạo quân xâm lược bơi chậm mà không có một người nào trong hai bên nhận ra họ gần với nhau như thế nào. Đi rất nhanh vì vận động theo một đường thẳng, Nelson đến Alexandria ngày 28/6 và phát hiện ra rằng không có người Pháp ở đó. Sau khi có một cuộc họp với chỉ huy cao cấp của đế quốc Ottoman Sayyid Muhammad Kurayyim, Nelson ra lệnh cho hạm đội Anh đi về phía bắc, tiếp cận bờ biển Anatolia ngày 04/7 và quay về phía tây quay trở lại Sicily.

Nelson bị mất dấu người Pháp bởi đi ít hơn một ngày, những tầu trinh sát của hạm đội Pháp khi đến ngoài khơi Alexandria vào tối ngày 29/6. Lo lắng bởi có thể có sự chạm trán bất thình lình giữa hạm đội của ông với Nelson, Bonaparte ra lệnh cho một cuộc xâm lược ngay lập tức, quân đội của ông cập bờ bởi yếu kém trong việc điều khiển hoạt động tiếp đất làm ít nhất 20 người bị chết đuối. Tập hợp dọc theo bờ biển, quân đội Pháp xông đến Alexandria và chiếm thành phố, Bonaparte sau đó chỉ huy các lực lượng chính của quân đội của ông ta trong nội địa.

Tư lệnh hải quân của ông ta, Phó đô đốc François-Paul Brueys DAigalliers, thả neo tại cảng Alexandria, nhưng khảo sát hải quân báo cáo rằng các kênh vào bến cảng đã quá nông cạn và hẹp cho các tàu lớn của hạm đội Pháp. Kết quả là một neo đậu thay thế tại Vịnh Aboukir đã được chọn, cách 20 dặm (32 km) về phía đông bắc của Alexandria.

Đội tàu của Nelson đến Syracuse Sicily vào ngày 19/7 và lấy các nguồn cung cấp thiết yếu. Nelson đã viết bức thư mô tả những sự kiện của các tháng trước: “Đó là một kiểu nói cổ xưa rằng: Devil trẻ thường có may mắn của Devil Tôi không thể tìm thấy, tại thời điểm này, ngoài những phỏng đoán mơ hồ, nơi Hạm đội Pháp đang đi.. Mọi tài sản ốm yếu của tôi, hiện nay, đã bắt nguồn từ việc muốn có các tàu khu trục (frigate)”.

Vào ngày 24/7 hạm đội của ông đã được tăng cường hàng tiếp liệu và, đã xác định được người Pháp phải có một nơi nào đó tại phía Đông Địa Trung Hải, Nelson khởi hành trở lại theo hướng Morea.

Ngày 28/7, tại Coron, thông tin cuối cùng đã thu được qua các mô tả các cuộc tấn công của Pháp vào Ai Cập và Nelson chuyển về phía nam, các tầu trinh sát của ông ta chiếc HMS Alexander và HMS Swiftsure phát hiện các đội tàu vận tải Pháp tại Alexandria vào chiều ngày 01/8.

Vịnh Aboukir

Khi thấy bến cảng Alexandria không đủ sâu cho hạm đội của mình, Brueys đã tập hợp các thuyền trưởng lại và thảo luận về lựa chọn của họ. Bonaparte ra lệnh cho hạm đội neo ở vịnh Aboukir, một neo cạn và trống trải, nhưng có bổ sung các mệnh lệnh với đề nghị rằng nếu Brueys thấy vịnh Aboukir quá nguy hiểm thì có thể đi thuyền về phía bắc tới Corfu, chỉ để lại tầu vận tải và một số tàu chiến nhẹ tại Alexandria.

Brueys từ chối, với niềm tin rằng hạm đội của ông có thể cung cấp hỗ trợ cần thiết cho quân đội Pháp trên bờ biển, và cho gọi các thuyền trưởng của ông trên boong chiếc tàu 120 súng kỳ hạm Phương Đông để thảo luận về việc phản ứng như thế nào nếu Nelson tìm ra các đội tàu tại nơi neo đậu của nó. Bất chấp sự phản đối cao giọng của Chuẩn đô đốc Armand Blanquet, người nhấn mạnh rằng hạm đội tốt nhất có thể đáp trả (quân Anh) trong vùng nước mở, các thuyền trưởng đều nhất trí rằng neo đậu trong một tuyến chiến đấu bên trong vịnh sẽ tạo ra một hoả lực mạnh để đối phó với Nelson.

Có thể là Bonaparte dự tính cho các tầu thả neo để tạo một căn cứ tạm thời, trong ngày 27/7, ông bày tỏ sự kỳ vọng rằng Brueys sẽ chuyển tới Alexandria và ba ngày sau đó đã ban hành lệnh cho các đội tàu sửa soạn tới Corfu để chuẩn bị cho các hoạt động của hải quân chống lại các lãnh thổ của Đế quốc Ottoman trong vùng Balkan.

Vịnh Aboukir là một chỗ thụt vào ở ven biển dài 16 hải lý (30 km), kéo qua từ làng Abu Qir phía tây đến thị trấn Rosetta ở phía Đông, nơi mà một trong những cửa của con sông Nile chảy vào Địa Trung Hải.

Năm 1798 vịnh được bảo vệ ở cuối phía tây của nó bằng các bãi cát ngầm rộng chạy dài 3 dặm (4,8 km) vào vịnh từ một doi đất được phòng vệ bởi lâu đài Aboukir. Những bãi cát ngầm cũng đã được bảo vệ bởi một pháo đài nhỏ nằm trên một hòn đảo giữa các tảng đá. Pháo đài này được đồn trú bởi lính Pháp và trang bị ít nhất bốn khẩu pháo và hai khẩu cối hạng nặng. Brueys đã tăng cường cho các đồn với tàu phóng bom và pháo hạm, được buông neo ở phía các tảng đá ở phía tây của hòn đảo ở một vị trí để cung cấp hỗ trợ cho chiếc tầu đứng đầu đội hình tuyến của Pháp.

Các bãi cát ngầm chạy không đều ở phía nam của đảo và mở rộng trên vịnh biển và trong một hình bán nguyệt khoảng 1.650 yards ( tương đương 1.510m) từ bờ biển. Những bãi cát ngầm quá cạn để cho phép các tàu chiến lớn hơn đi qua, do đó Brueys đã ra lệnh mười ba tàu của ông lập đội hình thành một tuyến của trận đánh sau rìa đông bắc của bãi cát ngầm ở phía nam của đảo, một vị trí cho phép các tàu để lấy nguồn cung cấp từ phía cảng của họ trong khi kiểm soát cả việc đổ bộ với pháo mạn phải của họ.

Một tuyến thứ hai bên trong bốn tàu khu trục được bố trí khoảng 350 yards (320m) ở phía tây của tuyến chính, khoảng nằm giữa đội hình chiến đấu và bãi cát ngầm. Các tầu tiên phong của Pháp được chỉ huy bởi chiếc Guerrier, được định vị ở khoảng 2.400 yards (2.200m) phía đông nam của đảo Aboukir và khoảng 1.000 yards (910 m) từ các cạnh của bãi cát ngầm bao quanh các hòn đảo.

Đội hình tuyến sau đó kéo dài về phía đông nam với trung tâm hướng mũi ra phía biển từ bãi cát ngầm. Các tàu chiến của Pháp có khoảng cách với nhau khoảng 160 yards (150m) và toàn bộ đội hình tuyến kéo dài 2.850 yards (2.610m), với kỳ hạm Phương Đông ở trung tâm và hai tàu lớn 80-gun, neo ở hai bên. Đội hậu quân của đội hình này dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc Pierre-Charles Villeneuve trong chiếc Guillaume Tell.

Bằng việc triển khai các tàu của mình theo cách này, Brueys hi vọng rằng người Anh sẽ bị mắc vào các bãi cát ngầm khi tấn công vào đội hình trung tâm trang bị mạnh mẽ của mình và đội hậu quân, cho phép đội tiền quân của mình để sử dụng gió đông bắc để phản công người Anh khi họ (tiền quân Pháp) tham gia vào trận đánh.

Tuy nhiên, ông đã thực hiện một sự xét đoán sai nghiêm trọng: có đủ chỗ giữa chiếc Guerrier và bãi cát ngầm cho một tàu của đối phương đi cắt ngang qua chiếc đứng đầu đội hình tuyến của Pháp, làm cho các tầu tiên phong không được hỗ trợ và rơi vào trường hợp bị bắn chéo cánh sẻ từ hai đội tàu của đối phương.

Trong bố trí của Brueys có một lỗ hổng quan trọng thứ hai, đó là khoảng trống 160 yard giữa các tàu là đủ lớn cho một chiếc tàu của Anh xuyên qua và phá vỡ đội hình tuyến của Pháp, và không phải tất cả các thuyền trưởng của ông đã làm theo lệnh buộc kèm dây cáp vào mũi và đuôi tầu bên cạnh họ, nếu làm việc này đã có thể ngăn ngừa sự vận động uyển chuyển của người Anh.

Vấn đề đã trở nên nghiêm trọng bởi mệnh lệnh cho phép chỉ neo tại các mũi, cho phép các tàu dịch chuyển trong gió và mở rộng các khoảng trống. Nó cũng tạo ra các khu vực trong đội hình của Pháp mà (khu vực này) không bị bao phủ bởi những pháo mạn của bất kỳ tàu nào, trong khu vực đó một tàu của Anh có thể neo và tấn công tầu của Pháp mà không sợ bị bắn trả. Ngoài ra, việc triển khai các hạm đội của ông ta (người Pháp) ngăn cản đôị hậu quân hỗ trợ có hiệu quả các các tầu tiên phong do gió mậu dịch.

Một vấn đề bức xúc hơn cho Brueys là một thiếu thức ăn và nước cho các đội tàu: Bonaparte đã bốc dỡ gần như tất cả các đồ cung cấp dự trữ trên tàu và không có nguồn cung cấp đã được mang tới cho các tàu từ bờ biển. Để khắc phục điều này, Brueys gửi các đội đi lục lọi dọc theo bờ biển để trưng thu thực phẩm và lấy nước, nhưng các cuộc tấn công liên tục của du kích Bedouin yêu cầu mỗi đội tầu phải có một đội bảo vệ vũ trang hạng nặng, dẫn đến một phần ba thủy thủ của hạm đội phải ra khỏi tàu của họ tại bất kỳ thời gian nào.

Brueys đã viết một lá thư mô tả tình hình đển Bộ trưởng Hải quân Étienne Eustache Bruix, báo cáo rằng: “Thuỷ thủ đoàn của chúng tôi rất yếu, cả về số lượng và chất lượng, buồm cơ của chúng tôi, nói chung không sửa chữa được nữa, và tôi chắc chắn rằng phải đòi hỏi không ít can đảm để quản lý một hạm đội được trang bị với các công cụ như vậy.”

Sơ đồ trận hải chiến sông Nile tại vịnh Aboukir

Khi Nelson đến

Mặc dù ban đầu thất vọng rằng phần chính của hạm đội Pháp đã không ở tại Alexandria, Nelson biết từ quá trình vận chuyển rằng họ phải ở gần đó. Lúc 14 giờ ngày 01/8, những người đứng gác trên chiếc HMS Zealous báo cáo rằng Hạm đội của Pháp neo trong vịnh, trung úy tín hiệu của nó (chiếc HMS Zealous) đánh tín hiệu cho trung úy của chiếc HMS Goliath, nhưng miêu tả không chính xác 16 tàu tiền tuyến Pháp thay vì 13.

Những người đứng gác của tầu Pháp đồng thời nhìn cũng thấy hạm đội Anh, khoảng 9 hải lý (17 km) ở ngoài cửa vịnh Aboukir, mặc dù chiếc Swiftsure và Alexander đã trở về từ Alexandria, và đã đi được dặm 3 hải lý (5,6 km) về phía tây của hạm đội chính, ra khỏi tầm mắt. Troubridge của tàu HMS Culloden ở một khoảng cách khá xa đội hình chính, kéo một chiếc tàu buôn bị bắt. Trong tầm mắt của người Pháp, Troubridge bỏ con tàu kia lại và không ngừng hăng hái để tái gia nhập đội của Nelson.

Do cần thiết phải để nhiều thủy thủ làm việc trên bờ, Brueys không triển khai các tàu chiến nhẹ hơn của ông như các chiếc tầu trinh sát, mà ông ta còn không thể nhanh chóng phản ứng trước sự xuất hiện bất ngờ của người Anh. Khi tàu của ông sẵn sàng cho chiến đấu, Brueys vội vàng thu hồi thủy thủ của ông từ bờ, mặc dù hầu hết các đội thủy thủ đi kiếm lương thực vẫn không quay lại cho đến khi thời gian của trận đánh bắt đầu. Để thay thế cho họ, một số lượng lớn người đã được đưa ra khỏi tàu khu trục và phân phối vào các tàu của tuyến.

Brueys cũng hy vọng sẽ thu hút các hạm đội Anh vào bãi cát ngầm tại đảo Aboukir, và tung các chiếc brig Alerte và Railleur để hoạt động như mồi nhử trong vùng nước nông. Vào lúc 16 giờ, hai chiếc Alexander và Swiftsure vẫn ở trong tầm mắt, mặc dù chỉ cách hạm đội chính của Anh một khoảng, và Brueys đã cho lệnh bỏ kế hoạch thả neo và thay vào đó cho ra lệnh cho đội tầu của mình căng buồm lên.

Nelson sau đó lệnh cho tàu đi đầu của mình chậm lại để cho phép các đội tàu tiếp cận với một đội hình có tổ chức. Việc này đã thuyết phục Brueys rằng thay bằng một trận chiến vào buổi tối ở các vùng nước nông, người Anh có lập kế hoạch để chờ ngày hôm sau, và ông đã hủy bỏ lệnh của mình trước đó để giương buồm. Brueys có thể đã hy vọng rằng sự chậm trễ sẽ cho phép ông ta trượt qua người Anh trong đêm và do đó làm theo mệnh lệnh của Bonaparte không tham gia chiến đấu trực tiếp với hạm đội Anh, nếu họ có thể tránh được.

Tranh vẽ tại thế kỷ 19 tổng quát về trận hải chiến sông Nile

Mệnh lệnh của Nelson là tiến chậm, được đưa ra vào lúc 16 giờ, để cho tàu của ông có thể sắp xếp các cáp neo của họ, điều này cho phép họ đưa đi đưa lại các pháo mạn của mình khi đối mặt với kẻ thù bị thả neo bất động. Nó cũng làm giảm nguy cơ bị bắn vào cột buồm (raking) khi họ di chuyển vào vị trí.

Kế hoạch của Nelson được định hình thông qua các cuộc thảo luận với thuyền trưởng cấp cao của ông trong suốt chuyến đi trở về Alexandria, là tiến về phía quân Pháp và tấn công từ phía biển đội hình tiền quân và trung tâm của đội hình tuyến của Pháp, sao cho mỗi tàu Pháp sẽ phải đối mặt với hai tàu của Anh và chiếc kỳ hạm Phương Đông sẽ phải chiến đấu chống lại ba chiếc tàu đối phương.

Hướng gió chỉ ra rằng đội hậu quân Pháp sẽ bị cắt ra từ phía sau và không thể dễ dàng tham gia vào cuộc chiến và sẽ bị cắt bỏ với phần phía trước của đội hình tuyến. Để đảm bảo rằng trong khói và sự dễ nhầm lẫn của một trận chiến đêm các tàu của ông sẽ không vô tình bắn vào nhau, Nelson đã ra lệnh cho rằng mỗi con tàu chuẩn bị bốn đèn ngang ở phần đầu cột buồm giữa của tầu của họ và cũng để chiếu sáng cờ hiệu trắng,

Đó là sự khác nhau khi cờ của người Pháp có đủ ba màu rõ rằng người ta sẽ không bị lầm lẫn trong tầm nhìn hạn chế. Khi con tàu đã sẵn sàng cho trận đánh, Nelson đã tổ chức một bữa ăn tối cuối cùng với các sĩ quan của tầu Vanguar, và nói rằng: “Trong thời gian này của ngày mai hoặc là tôi sẽ có được một chiến thắng hoặc là Tu viện Westminster”. (Ý nói nếu thua, ông ta sẽ chết và xác sẽ được gửi về tu viện Westminster).

Ngay sau khi lệnh căng buồm của Pháp lại bị huỷ bỏ, hạm đội Anh bắt đầu tiến lại gần một lần nữa và Brueys, bây giờ nhất định rằng có một cuộc tấn công vào ban đêm, ra lệnh cho các tàu của ông cũng đặt ( spring) trên dây neo của họ và chuẩn bị cho chiến đấu. Chiếc Alerte đã được gửi đi trước, đi qua gần các tàu hàng đầu của Anh và sau đó ngoặt nhanh về phía tây với hy vọng rằng các tàu của Anh có thể làm theo và trở nên bị mắc cạn.

Không có thuyền trưởng nào của Nelson mắc phải mưu mẹo này và hạm đội Anh tiếp tục tiến lên một cách không nao núng. Lúc 17:30 Nelson ca ngợi một trong hai chiếc tàu hàng đầu của ông, chiếc HMS Zealous dưới thuyền trưởng Samuel Hood, vốn đang chạy đua với chiếc Goliath để là người đầu tiên bắn vào người Pháp.

Đô đốc đã ra lệnh cho Hood tiến hành một di chuyển an toàn nhất vào bến cảng; người Anh không có bảng xếp hạng độ sâu hoặc hình dạng của vịnh, ngoại trừ một bản đồ họa thô mà chiếc Swiftsure đã thu được từ một thuyền trưởng tầu buôn, một tập bản đồ không chính xác của người Anh trên chiếc HMS Zealous và một bản đồ Pháp 35 năm tuổi trên tàu Goliath. Hood trả lời rằng ông sẽ đi cẩn thận dò độ sâu khi ông tiến lên, để kiểm tra độ sâu của nước.

Ngay sau đó, Nelson phải tạm dừng để nói chuyện với chiếc HMS Mutine, mà chỉ huy của nó là Trung úy Thomas Hardy vừa mới bắt được một hoa tiêu từ một tàu nhỏ ở Alexandrine. Chiếc Vanguard đến để chặn lại, các tàu phía sau đi chậm lại. Điều này gây ra một khoảng cách lớn giữa chiếc Zealous và Goliath và phần còn lại của đội tàu.

Để cuộc tấn công này có hiệu lực, Nelson ra lệnh cho chiếc HMS Theseus dưới thuyền trưởng Ralph Miller vượt qua kỳ hạm của mình và tham gia cùng với chiếc Zealous và Goliath trong đội hình tiên phong. Vào lúc 18 giờ, hạm đội Anh đã căng buồm đầy đủ, chiếc Vanguard là thứ sáu trong đội hình mười tàu, với chiếc Culloden bị dấu ở đằng sau về phía bắc và hai chiếc Alexander và Swiftsure chạy nhanh để bắt kịp về phía tây.

Sau sự thay đổi nhanh chóng từ một đội hình không chặt trẽ để hình thành một đội hình tuyến chiến đấu cả hai hạm đội kéo cao cờ của mình lên cột buồm, các tàu của Anh được bổ sung thêm chiếc Union Jack. Lúc 18:20, chiếc Zealous và Goliath nhanh chóng lac vào hai tầu hàng đầu của Pháp chiếc Guerrier và Conquérant và nổ súng.

Trận đánh

Mười phút sau khi nổ súng vào tầu Pháp, chiếc Goliath bất chấp đạn bắn từ pháo đài để lái sang phải và từ chiếc Guerrier tới cảng, vượt qua phần đầu của dòng tầu Pháp. Thuyền trưởng Thomas Foley nhận thấy là ông đã tiếp cận trong một khoảng cách không mong muốn giữa chiếc Guerrier và mực nước nông của của các bãi cát này.

Bằng sự sáng tạo của mình, Foley đã quyết định sửa chữa lỗi chiến thuật này và thay đổi góc của ông để đi thuyền qua khoảng cách này. Khi mũi của chiếc Guerrier trong phạm vi tầm bắn, chiếc Goliath nổ súng, các pháo mạn bắn đạn đôi gây thiệt hại nghiêm trọng trong khi tàu Anh quay sang mạn bên kia, phía mạn không được chuẩn bị gì của chiếc Guerrier.

Foley đã có dự định neo tàu ở cạnh tàu Pháp và áp chặt vào nó, nhưng dây neo của ông lại quá dài để hạ xuống và tàu của ông hoàn toàn vượt qua chiếc Guerrier. Chiếc Goliath cuối cùng dừng lại ở gần mũi của chiếc Conquérant (Pháp), nổ súng vào đối thủ mới và sử dụng súng mạn phải bắn qua bắn lại với các tàu khu trục nhỏ Sérieuse và tàu tầu phóng bom Hercule đang được neo gần bờ của đội hình tuyến chiến đấu.

Foley tấn công tiếp liên trong khi chiếc Zealous của Hood, cũng đi qua tuyến tầu của Pháp và neo thành công bên cạnh cạnh chiếc Guerrier vào đúng chỗ Foley đã định neo tầu, tấn công vào mũi tàu Pháp từ cự ly gần. Trong vòng năm phút cột buồm mui của chiếc Guerrier gẫy, tạo nên sự khuyến khích cho tàu của Anh.

Các thuyền trưởng người Pháp đã bị bất ngờ bởi tốc độ của tầu Anh, và vẫn ở trên boong của tàu Phương Đông và hội họp với các đô đốc khi trận đánh bắt đầu, vội vàng hạ thủy các con xuồng nhỏ để trở về tàu của họ, thuyền trưởng Jean-François-Timothée Trullet của chiếc Guerrier hò hét từ trên một chiếc xuồng nhỏ để ra lệnh cho người của mình bắn trả chiếc Zealous.

Sự thất vọng của Napoleon Bonaparte

Chiếc tàu thứ ba của Anh – HMS Orion tham gia tấn công dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Sir James Saumarez, làm tròn sự tham gia ở phần đầu của dòng chiến. Theo quy ước trong hải chiến thời đó, tàu tiền tuyến không tấn công các tàu khu trục khi có các tầu có kích cỡ tương đương để tấn công, nhưng trong loạt bắn đầu tiên thuyền trưởng Claude-Jean Martin (của tầu khu trục Sérieuse) đã “xổ toẹt” quy tắc này.

Saumarez đợi cho đến khi chiếc tàu khu trục nhỏ vào cự ly gần trước khi bắn trả. Orion chỉ cần nổ một loạt pháo mạn là hạ ngay một tàu khu trục nhỏ, tàu bị vô hiệu hoá của Martin trôi đi trong vùng nước nông.

Trong lúc chậm trễ do đường vòng này, hai tàu khác của Anh tham gia vào cuộc chiến. Chiếc Theseus vượt dòng Pháp giữa hai chiếc Guerrier và Conquérant, Miller lái tàu của mình đi xuyên qua giữa cuộc hỗn chiến của các tàu Anh và Pháp cho đến khi ông gặp con tàu thứ ba của Pháp – chiếc Spartiate. Neo xong Miller nổ súng ở cự ly gần. Chiếc HMS Audacious dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Davidge Gould theo sau, thả neo giữa chiếc Guerrier và Conquérant và bắn vào cột buồm của họ. Chiếc Orion sau đó tham gia vào tấn công ở xa hơn về phía nam so với dự định, và bắn vào chiếc tàu thứ năm của Pháp Peuple Souverain và chiếc hạm Franklin của Đô đốc Blanquet.

Tàu tiên phong Pháp đầu hàng

Lúc 19 giờ, đèn nhận dạng tại cột buồm trung tâm của hạm đội Anh đã được thắp sáng. Vào thời gian này, chiếc Guerrier đã hoàn toàn bị gãy hết cột buồm và thiệt hại nặng nề: Hood để cho chiếc Zealous ở bên ngoài tầm của hầu hết các pháo mạn tàu Pháp và trong bất kỳ trường hợp nào chiếc Guerrier đã không được chuẩn bị sẵn sàng cho một trận đánh với các khẩu đội pháo ở đồng thời cả hai bên mạn.

Mặc dù tàu của họ chỉ là còn là một cái xác đầy thương tích, các thủy thủy đoàn của chiếc Guerrier từ chối không chịu đầu hàng, họ vẫn tiếp tục bắn vài khẩu súng nhỏ mỗi khi có thể bất chấp đạn hạng nặng bắn từ chiếc Zealous.

Ngoài súng hạng nặng của mình, Hood lệnh cho Thủy quân lục chiến Hoàng gia trên tầu của mình bắn súng hỏa mai cầu vồng vào boong của tàu Pháp, xua thủy thủ đoàn ra khỏi tầm mắt nhưng vẫn thất bại trong việc đảm bảo an toàn cho sự đầu hàng của thuyền trưởng Trullet.

Mãi cho đến 21 giờ, khi Hood gửi một chiếc thuyền nhỏ đển chiếc Guerrier với một đội thủy thủ nhảy lên boong, thì chiếc tàu Pháp cuối cùng mới chịu đầu hàng. Chiếc Conquérant bị đánh bại nhanh chóng, sau những loạt pháo mạn hạng nặng từ các tàu Anh đang vượt qua và sự áp sát của chiếc Audacious và Goliath đánh gẫy cả ba cột buồm trước 19 giờ.

Với con tàu bất động và hư hỏng nặng của mình, vị thuyền trưởng Etienne Dalbarade đang bị thương nặng cho lệnh vẫy cờ đầu hàng. Một đội thủy thủ Anh đổ bộ lên boong và nắm quyền kiểm soát con tầu. Không giống như chiếc Zealous, tàu của Anh tham gia tấn công đã bị hư hại khá nghiêm trọng, chiếc Goliath mất phần lớn buồm của nó, cả ba cột buồm đều bị thiệt hại và có hơn 60 thương vong.

Việc chiếc tầu Audacious dùng pháo mạn để bắn chiếc Spartiate có nghĩa rằng, thuyền trưởng Maurice-Julien Emeriau (của chiếc Spartiate) bây giờ đã phải đối mặt với ba đối thủ.

Trong vòng vài phút cả ba cột buồm đã gẫy, nhưng các trận đánh trên tàu vẫn tiếp tục cho đến 21 giờ, khi đó do bị thương nặng Emeriau mới cho phất cờ chấp nhận đầu hàng. Mặc dù chiếc Spartiate bị tràn ngập bởi số lượng đối thủ lớn hơn, con tàu này thỉnh thoảng được hỗ trợ bởi chiếc tiếp theo trong dòng, Aquilon, mà đây là chiếc duy nhất của Hải đội tiên phong Pháp được chiến đấu chỉ với một đối thủ, chiếc Minotaur.

Thuyền trưởng Henri-Alexandre Thévenard sử dụng các lò xo trên cáp neo của mình để tạo góc bắn pháo mạn vào một vị trí bắn thia lia vào mũi chiếc kỳ hạm của Nelson, kết quả tạo ra hơn 100 thương vong, trong đó có cả vị đô đốc (Nelson).

Vào lúc khoảng 20 giờ 30, con mắt bên phải của Nelson bị mù mắt bởi một mảnh vụn sắt bắn vào một loạt bắn của chiếc Spartiate. Vết thương tạo ra một miếng da lòng thòng trên mặt của ông, ông ta (Nelson) tạm thời bị mù hoàn toàn. Nelson ngã vào cánh tay của thuyền trưởng Edward Berry và được đặt nằm ở dưới đất.

Cho rằng vết thương của ông sẽ gây tử vong, ông khóc và nói: “Tôi bị giết rồi hãy nhớ chăm sóc vợ tôi” và gọi linh mục Stephen Comyn tới. Vết thương đã được kiểm tra ngay lập tức bác sĩ phẫu thuật Michael Jefferson của chiếc Vanguard, người đã thông báo với đô đốc rằng nó chỉ là một vết thương phần mềm đơn giản và khâu vết thương ngoài da với nhau. Nelson sau đó bỏ qua các hướng dẫn của Jefferson là không hoạt động, trở lại boong chỉ huy ngay trước khi vụ nổ trên chiếc Phương Đông xảy ra để giám sát việc kết thúc các giai đoạn của trận đánh. Mặc dù đã có được một số thành công, chiếc Aquilon quay vòng mũi tầu tại vị trí của mình dưới các làn đạn của chiếc Minotaur. Đến 21 giờ 25, tàu Pháp đã hoàn toàn bị gãy hết cột buồm và thiệt hại nặng nề, Thuyền trưởng Thévenard thiệt mạng và các sỹ quan của ông buộc phải đầu hàng. Sau khi đánh bại đối thủ của mình, thuyền trưởng Thomas Louis của chiếc Minotaur tiến về phía nam tham gia các cuộc tấn công vào chiếc Franklin.

Chiếc tàu thứ năm của Pháp, Peuple Souverain bị tấn công từ bên bởi hoặc bởi chiếc Defence hoặc chiếc Orion và nhanh chóng bị mất phần mũi và cột buồm chính. Thuyền trưởng Saumarez (tầu Orion – Anh) mặc dù bị thương ở đùi bằng một mảnh gỗ bị bắn văng ra từ một trong những cột buồm của chiếc Orion và nó cũng giết chết hai người lính thủy khác trước khi làm ông ta bị thương.

Trên chiếc Peuple Souverain, thuyền trưởng bị thương nặng Pierre-Paul Raccord đã ra lệnh cắt cáp neo tàu của ông trong một nỗ lực để thoát khỏi trận pháo kích và Peuple Souverain trôi dạt về phía nam của hạm Phương Đông.

Trong khi trận đánh đang diễn ra một cách cuồng bạo ở trong vịnh, hai chiếc tầu không còn thứ tự của Anh không ngừng tiến lên để tham gia chiến đấu, chúng tập trung vào các tiếng súng trong bóng tối. Được cảnh báo từ các bãi cát ngầm của Aboukir từ chiếc Culloden, thuyền trưởng Benjamin Hallowell trong chiếc Swiftsure đi xuyên qua các trận hỗn chiến ở phần đầu của dòng này và nhằm tàu của ông vào đội hình trung tâm của Pháp.

Ngay sau lúc 20 giờ, một thân tầu gãy hết cột buồm đã được phát hiện trôi trước mặt chiếc Swiftsure, Hallowell bước đầu ra lệnh cho người của mình trước khi hủy bỏ mệnh lệnh, quan tâm về dạng của chiếc tàu lạ ông ta cho gọi tới tấp, Hallowell nhận được câu trả lời: “Bellerophon, ra khỏi trận đánh vì mất sức chiến đấu.” Để chắc chắn rằng ông đã không tấn công nhầm lẫn một tàu của quân mình trong bóng tối, Hallowell đi lên giữa chiếc Phương Đông và Franklin và nổ súng vào cả hai. Chiếc Alexander, chiếc tầu Anh cuối cùng chưa tham chiến bơi lại gần chiếc Tonnant, lúc này (chiếc Tonnant) đã bắt đầu trôi dạt ra khỏi vị trí bên cạnh chiếc kỳ hạm Pháp. Sau đó thuyền trưởng Alexander Ball ra lệnh tham gia vào cuộc tấn công chiếc Phương Đông.

Hậu quả của trận đánh

Phía quân Anh thương vong trong trận đánh được ghi chép lại với tính chính xác cao, hậu quả trước mắt là 218 người chết và khoảng 677 người bị thương. Mặc dù số người bị thương đã chết sau đó thì không được biết. Các tàu phải chịu nhiều nhất là chiếc Bellerophon với 201 thương vong và Majestic với 193, trong khi đó ngoài chiếc Culloden ra chiếc thiệt hại nhẹ nhất là Zealous, chỉ có một người thiệt mạng và bảy người bị thương.

Danh sách các sỹ quan bao gồm thuyền trưởng Westcott, 5 phó và 10 sỹ quan trẻ trong số những người chết. Đô đốc Nelson, Captains Saumarez, Ball và Darby cùng với 6 trung úy bị thương.

Ngoài chiếc Culloden (mắc cạn không thể tham gia trận đánh), các tàu Anh bị hư hỏng nghiêm trọng ở phần thân tầu của họ là: Bellerophon, Majestic và Vanguard. Chỉ có chiếc Bellerophon và Majestic bị mất cột buồm, chiếc Majestic mất buồm chính và sau chiếc Bellerophon cả ba cột buồm.

Thương vong của Pháp thì khó để tính được nhưng đặc biệt cao hơn người Anh. Ước tính thiệt hại của người Pháp nằm trong khoảng từ 2.000 đến 5.000, bao gồm hơn một ngàn người bị thương và bị bắt giữ, gần 2.000 người chết, một nửa trong số đó đã chết trên chiếc Kỳ hạm Phương Đông.

Ngoài Đô đốc Brueys chết, Đô đốc Blanquet bị thương, 4 thuyền trưởng chết và 7 người khác đã bị thương nặng. Các tàu Pháp bị hư hại nghiêm trọng tương tự như vậy: 2 tàu tiền tuyến và 2 tàu khu trục bị phá hủy và ba tàu khác bị bắt nhưng cũng bị thương quá trầm trọng không thể đi biển được nữa.

Trong số các tầu chiến lợi phẩm còn lại, chỉ có ba chiếc được sửa chữa là còn đủ cho khả năng chiến đấu. Hàng tuần sau đó nhiều thi thể của những thủy thủ trong trận đánh dạt lên dọc theo bờ biển Ai Cập, từ từ mục nát trong gió khô nóng và dữ dội.

Nelson vẫn thả neo tại Vịnh Aboukir hai tuần sau đó, ông này cần phải điều trị vết thương của mình, viết công văn, đánh giá tình hình quân sự tại Ai Cập bằng cách sử dụng các tài liệu bị bắt trên một boong tầu chiến lợi phẩm, trong lúc người của mình tước đoạt các vật hữu ích từ các xác tầu địch và sửa chữa tàu họ cũng như các tầu chiến lợi phẩm.

Trong suốt tuần, Vịnh Aboukir được bao phủ bởi pháo hoa, được đốt bởi bộ lạc Bedouin tại lễ kỷ niệm chiến thắng của người Anh. Vào ngày 5/8, chiếc Leander đã xuất phát để đến Cadiz với những thông điệp cho Earl St Vincent được chuyển qua thuyền trưởng Edward Berry. Trong vài ngày sau đó tất cả khoảng 200 tù nhân bị bắt đã đổ bộ vào bờ với các điều khoản nghiêm ngặt về việc phóng thích, và sau đó Bonaparte sau đó ra lệnh cho họ (lúc này đã được phóng thích) thành lập một đơn vị bộ binh và bổ sung vào đội quân của ông. Ngày 8/8, Hạm đội tấn công đảo Aboukir, đơn vị đồn trú đã đầu hàng mà không chiến đấu. Quân đổ bộ gỡ bỏ bốn khẩu súng và phá hủy phần còn lại cùng với các đồn trại của người Pháp và đổi tên hòn đảo thành “Hòn đảo của Nelson”.

Ngày 10/8, Nelson gửi Trung úy Thomas Duval từ chiếc Zealous với các thông điệp đến chính phủ (Anh) ở Ấn Độ. Duval đi đường bộ ngang qua Trung Đông đến Aleppo và lấy một con tàu từ Basra tới Bombay, báo cáo với Tổng đốc Ấn Độ Tử tước Wellesley về tình hình tại Ai Cập.

Thông điệp đầu tiên đến được Bonaparte về thảm họa đã hủy diệt hạm đội Pháp vào ngày 14/8 tại doanh trại của ông trên con đường giữa Salahieh và Cairo. Người đưa thư là một viên chức do Thống đốc Alexandria Jean Baptiste Kléber cử đi, và báo cáo vội vàng bằng văn bản của Đô đốc Ganteaume, người sau đó lên tàu Villeneuve ở ngoài biển.

Một nguồn tin nói rằng khi ông ta được trao các tin nhắn, Bonaparte đọc nó mà không có cảm xúc trước gì trước khi gọi người đưa thư để và đòi hỏi thêm chi tiết. Khi người đưa thư đã tường thuật xong, Vị tướng Pháp tuyên bố: “Noun navrons plus de flotte: eh bien. Il faut rester en contrées ses, ou en sortie grands comme les anciens” (“Chúng tôi không còn hạm đội nào nữa: tốt thôi, chúng tôi hoặc là phải ở lại đất nước này hoặc bỏ nó như là tổ tiên chúng tôi đã làm”).

Một câu chuyện khác, được kể bởi thư ký của tướng Bourienne rằng Bonaparte là hầu như bị mất tự chủ bởi những tin tức trên và kêu lên: “Thật là bất hạnh cho Brueys về những gì ông ta đã làm!”

Bonaparte sau đó đổ lỗi cho thất bại vào Đô đốc Blanquet, buộc tội ông một cách sai lầm là đã giao nộp chiếc Franklin trong khi chiếc này không hề bị hư hại. Những phản hồi từ Ganteaume và Bộ trưởng Étienne Eustache Bruix sau đó giảm mức độ mà Blanquet phải đối mặt với những lời chỉ trích, nhưng ông không bao giờ trở lại phục vụ cương vị chỉ huy.

Theo NĂNG LƯỢNG MỚI


Tags: , ,