Xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội bền vững: Kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam

Phúc lợi xã hội là một trong những quyền căn bản của con người và phải gắn liền với sự phát triển kinh tế. Hiện nay, trên thế giới có ba mô hình phúc lợi xã hội khác nhau, và việc xây dựng, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội vẫn là mối quan tâm của nhiều quốc gia.

Xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội bền vững: Kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam

Tác giả: TS. Phạm Thị Thu Lan, Viện Công nhân và Công đoàn.

Kể từ sau chiến tranh thế giới cho đến nay, nền kinh tế toàn cầu đã phát triển rất tốt song sự phát triển của hệ thống phúc lợi xã hội chưa được tương xứng, dẫn tới sự chênh lệch giàu nghèo gia tăng, bất bình đẳng gia tăng và người dân ở nhiều nước chưa cảm thấy hạnh phúc dù cuộc sống vật chất khấm khá hơn. Bài viết khái quát về sự phát triển hệ thống phúc lợi trên thế giới và gợi ra một số điểm để phát triển hệ thống phúc lợi ở Việt Nam.

1. Các khái niệm liên quan

Khái niệm phúc lợi và phúc lợi xã hội

Theo Từ điển tiếng Việt, phúc lợi là “lợi ích mà mọi người được hưởng không phải trả tiền hoặc chỉ phải chi trả một phần”.[1] Định nghĩa này xuất phát từ quan niệm về phúc lợi trong mô hình quản lý theo phương thức kế hoạch hóa tập trung: phúc lợi thường được hiểu là “phần thù lao bằng tiền hoặc hiện vậy mà NLĐ nhận được từ cơ quan hay xí nghiệp, ngoài tiền lương, tiền phụ cấp và tiền thưởng, nhằm được hỗ trợ thêm về mặt đời sống.[2]

Trước đó, từ phúc lợi đã được nêu trong Hán Việt từ điển giản yếu, được định nghĩa ngắn gọn: phúc lợi là “hạnh phúc và lợi ích[3]

Trong tiếng Anh, phúc lợi là welfare, và được nhà xã hội học Anh Gordon Marshall định nghĩa welfare là “tình trạng hoặc điều kiện làm ăn khấm khá (doing well) hoặc sinh sống đàng hoàng, hạnh phúc (being well)”. Từ welfare chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực chính sách và gắn với nhu cầu: “Các chính sách phúc lợi là những chính sách được thiết lập nhằm đáp ứng nhu cầu của cá nhân hay của nhóm”. Theo Marshall, nhu cầu ở đây không chỉ là nhu cầu tối thiểu như cái ăn, cái mặc,…để sinh tồn mà còn bao gồm cả những nhu cầu cần thiết cho một “cuộc sống tử tế và xứng đáng” (a reasonalbe and adequate life), chẳng hạn bao gồm nhà ở đàng hoàng, giáo dục, y tế và cơ hội có việc làm.[4]

Tổng hợp từ các lý luận về phúc lợi xã hội trên thế giới, tác giả Trần Hữu Quang tổng kết: “phúc lợi xã hội được hiểu theo nghĩa rộng, là hệ thống các định chế, các chính sách và các hoạt động nhằm bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất của người dân, với mục tiêu là làm sao cho mọi người dân có được một cuộc sống đàng hoàng, tử tế, xứng đáng với phẩm giá con người”. “Hệ thống này bao gồm các lĩnh vực như: giáo dục, y tế, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các chính sách trợ giúp xã hội (hỗ trợ những tầng lớp nghèo và khó khăn…) và các chính sách cứu trợ xã hội (cứu trợ thiên tai, dịch bệnh…).”[5]

Như vậy, có thể hiểu rằng: phúc lợi xã hội cho công nhân, viên chức, lao động là hệ thống các định chế, các chính sách và các hoạt động nhằm đảm bảo những nhu cầu thiết yếu nhất của công nhân, viên chức, lao động, với mục tiêu là làm sao cho mọi công nhân, viên chức, lao động có được một cuộc sống đàng hoàng, tử tế, xứng đáng với phẩm giá con người (nhân phẩm) từ trong lao động. Nói cách khác, công nhân, viên chức, lao động là những người lao động ở các lĩnh vực và vị trí công việc khác nhau, và từ sức lao động của họ, họ phải được hưởng một cuộc sống đàng hoàng, tử tế và nhân phẩm, được thể hiện thông qua hệ thống chính sách, pháp luật về lao động. Hệ thống này cần được hiểu cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô, nghĩa là cả các chính sách, pháp luật lao động của Nhà nước và các chính sách, quy định về lao động ở cấp cơ quan/tổ chức/doanh nghiệp.

Khái niệm bền vững và hệ thống phúc lợi xã hội bền vững

Bền vững là khái niệm được sử dụng phổ biến từ đầu thập niên 1980 gắn với khía cạnh môi trường và thường đi liền với từ phát triển. Định nghĩa phổ biến nhất được đề cập trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Liên Hiệp quốc từ năm 1987: “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đến năm 2002, khái niệm này mở rộng, nói tới quá trình phát triển kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm,..) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường…).

Trong tiếng Anh, từ bền vững là sustainablity, nghĩa là khả năng duy trì. Như vậy, có thể hiểu hệ thống phúc lợi xã hội bền vững là hệ thống các chính sách, pháp luật liên quan tới lao động cả cấp vĩ mô và vi mô được đảm bảo thực thi đầy đủ và được cập nhật phù hợp với điều kiện phát triển cụ thể ở cấp vĩ mô và vi mô, tức là sự phát triển của cả quốc gia và cơ quan/tổ chức/doanh nghiệp. Hệ thống đó phải được chủ động định kỳ điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển chứ không phải là hệ thống lỗi thời, lạc hậu, tồn tại trong một thời gian dài và ảnh hưởng tới cuộc sống đàng hoàng, tử tế và nhân phẩm của người lao động. Điều này cũng hàm ý hệ thống phúc lợi xã hội bền vững gắn với vai trò của Nhà nước và người sử dụng lao động trong các cơ quan/tổ chức/doanh nghiệp, cũng như vai trò của người lao động trong quá trình xây dựng hệ thống phúc lợi và thực thi. Có những nước, nhà nước được mệnh danh là “nhà nước phúc lợi” và doanh nghiệp đảm bảo trách nhiệm xã hội đã trở thành tiêu chuẩn hành vi hướng tới trên thế giới hiện nay.

Tuy nhiên, khái niệm về phúc lợi xã hội và hệ thống phúc lợi xã hội bền vững không chỉ liên quan tới các chế độ, thành quả xã hội mà người lao động được hưởng theo quy định của hệ thống pháp luật, quy định và chính sách mọi mặt ở cấp vĩ mô và vi mô, mà còn liên quan tới khái niệm về quyền của con người/ quyền của người lao động. Thomas H. Marshall, nhà xã hội học người Anh, là người đầu tiên gắn khái niệm phúc lợi xã hội với quyền công dân. Trong bài viết nổi tiếng của ông “Quyền công dân và giai cấp xã hội” (Citizenship and Social Class), ông quan niệm quyền công dân gồm ba thành tố: quyền công dân về mặt dân sự, về mặt chính trị và về mặt xã hội. Theo ông, nhà nước phúc lợi chính là kết quả của cả một quá trình lịch sử đấu tranh cho các quyền công dân trong suốt hơn 200 năm qua, bao gồm các quyền công dân dân sự (civil citizenship) – tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, bình đẳng trước pháp luật,…; quyền công dân chính trị (political citizenship) – ứng cử và bầu cử, tham gia vào quá trình hoạch định chính sách,…; và quyền công dân xã hội (social citizenship) – quyền được hướng một mức độ an sinh nhất định về mặt kinh tế, được tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội của đất nước,… Đối với người lao động, trong khía cạnh lao động, quyền công dân được thể hiện ở các quyền trong lao động, quyền của người lao động được hưởng phúc lợi xã hội theo quy định (quyền hưởng), cũng như quyền được tham gia vào quá trình xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội để đảm bảo tính bền vững của hệ thống đó (quyền tham gia). Biểu hiện của đảm bảo các quyền này trên thế giới được thể hiện thông qua các hình thái về đồng tham quyết ở nơi làm việc (co-determination), hội đồng lao động, ủy ban quản lý – lao động ở nơi làm việc, đối thoại xã hội và đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể, thương lượng thỏa thuận khung cấp quốc gia và cấp toàn cầu, v.v… cho thấy sự tham gia của người lao động là nền tảng của tính bền vững hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước trên thế giới.

Một điểm nữa cũng cần lưu ý trong khái niệm về hệ thống phúc lợi xã hội bền vững cho công nhân, viên chức, lao động, dựa trên quan niệm của Marshall, là: hệ thống này phải đảm bảo dựa trên các nguyên tắc phổ quát (universality), chứ không phải dựa trên quyền ấn định của những cơ quan có thẩm quyền (discretionary). Điều này có nghĩa là những định chế, hệ thống chính sách, quy định, pháp luật phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc và quyền phổ quát đã được thế giới công nhận, chứ không phải dựa trên lợi ích của nhà nước hay quốc gia, mặc dù trong quá trình xây dựng hệ thống đó, lợi ích của quốc gia được cân nhắc phù hợp trong những thời điểm nhất định của sự phát triển chung.

Có thể tóm lược là hệ thống phúc lợi xã hội bền vững dành cho công nhân, viên chức, lao động được nhìn nhận và đánh giá dựa trên tình hình chế độ phúc lợi xã hội hiện có đối với người lao động nói chung, các quyền trong lao động (quyền hưởng và quyền tham gia), và sự phát triển hệ thống phúc lợi xã hội của một quốc gia dựa trên nguyên tắc phổ quát. Kết quả của một hệ thống phúc lợi xã hội trong sự so sánh giữa các quốc gia với nhau được thể hiện ở chỉ số phát triển con người (HDI), hệ số GINI và chỉ số hạnh phúc. HDI là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác, cho thấy một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. HDI hiện nay đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí: sức khỏe, tri thức và thu nhập bình quân đầu người. GINI biểu thị độ bất bình đẳng trong thu nhập giữa các vùng miền, tầng lớp của một đất nước. Chỉ số hạnh phúc dựa trên sáu tiêu chí bao gồm GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ trung bình, quyền tự do lựa chọn cuộc sống và nhận thức về tham nhũng của người dân.

2. Hệ thống phúc lợi xã hội trên thế giới hiện nay

Hiện nay, hệ thống phúc lợi xã hội trên thế giới được thực hiện theo ba mô hình sau[6]:

Thứ nhất, mô hình tự do (liberal) là mô hình được áp dụng ở Mỹ, Canada và Úc, có đặc điểm là nhà nước chỉ can thiệp và giúp đỡ một cách có giới hạn đối với những người không còn khả năng sinh sống dựa trên thị trường, gia đình hoặc sự trợ giúp tư nhân.

Thứ hai, mô hình nghiệp hội bảo thủ (conservateur – corporatiste) là mô hình áp dụng điển hình ở Đức, Pháp, Áo, đặt nền tảng trên lao động làm công ăn lương, mang mục tiêu bảo vệ người lao động và gia đình của họ trước những nguy cơ như tai nạn, bệnh tật, giá cả, thất nghiệp,…bằng cách đảm bảo cho họ một mức thu nhập tối thiểu. Mô hình này áp dụng các quyền hưởng phúc lợi gắn liền với giai cấp và vị thế, bởi lẽ việc tái phân phối được thực hiện theo các nhóm ngành nghề và theo mức độ đóng góp của họ.

Thứ ba, mô hình phổ quát (universaliste), hay còn gọi là dân chủ – xã hội được áp dụng ở các nước Bắc Âu, là mô hình theo đó nhà nước bảo đảm phúc lợi cho toàn dân một cách đồng đều. Mô hình này mang đặc điểm là có mức độ bảo hộ xã hội cao đối với các bất trắc trong cuộc sống, có mức thuế suất cao, và cam kết với mục tiêu công bằng xã hội tái phân phối.

Dựa trên lý thuyết về các mô hình phúc lợi, tác giả Phạm Xuân Nam tổng hợp ba mô hình kinh tế tiêu biểu trong việc giải quyết mối quan hệ giữa việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện sự công bằng xã hội, bao gồm:

Thứ nhất, mô hình kinh tế thị trường tự do, trong đó vai trò của nhà nước bị hạ thấp và đề cao vị trí của khu vực tư nhân, giảm chi tiêu từ ngân sách quốc gia cho các lợi ích công cộng và chủ trương “tăng trưởng kinh tế phải đi trước, công bằng xã hội sẽ theo sau”.

Thứ hai, mô hình kinh tế thị trường xã hội, trong đó “kết hợp sử dụng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với việc thi hành một hệ thống các chính sách phúc lợi để tạo ra sự đồng thuận xã hội cho phát triển” như trợ cấp cho giáo dục, y tế, trẻ em, người gia, người tàn tật, người thất nghiệp… Mô hình này được áp dụng ở các nước Bắc Âu.

Thứ ba, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị trường ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, từng có thời gian “phát huy tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế theo chiều rộng” và “tạo nên sự bình ổn xã hội bằng những chính sách quan tâm đến các mặt của đời sống con người”, nhưng về sau “do cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, dần biến thành tập trung quan liêu và thực hiện chế độ bao cấp về cơ bản theo chủ nghĩa bình quân”.

Từ lý thuyết về mô hình hệ thống phúc lợi xã hội đi liền với mô hình kinh tế, trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy rằng mô hình phúc lợi xã hội phổ quát đi liền với mô hình kinh tế thị trường xã hội là mô hình được xem là ưu việt nhất trên thế giới và là mô hình được nhiều nước mong muốn hướng tới. Nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu nói chung, tập trung vào ba khía cạnh: chế độ phúc lợi xã hội hiện có đối với người lao động, quyền trong lao động (bao gồm quyền hưởng và quyền tham gia), sự phát triển hệ thống phúc lợi dựa trên nguyên tắc phổ quát để tìm hiểu khái quát về khả năng áp dụng ở Việt Nam.

Các nước Bắc Âu hiện là nhóm nước có chỉ số phát triển con người cao nhất trên thế giới. Trong tổng số 189 nước được xếp hạng năm 2018[7]: Nauy xếp thứ nhất, Thụy Điển thứ bảy, Đan Mạch thứ 11 và Phần Lan thứ 15. Nếu xét về chỉ số bất bình đẳng thì các nước Bắc Âu cũng thuộc nhóm có chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trên thế giới. Xét về chỉ số hạnh phúc thì các nước Bắc Âu nằm trong top các nước người dân hạnh phúc nhất theo Báo cáo về chỉ số hạnh phúc năm 2019[8]: Phần Lan xếp thứ nhất, Đan Mạch thứ hai, Nauy thứ ba và Thụy Điển thứ 7.

Các chỉ số trên cho thấy hệ thống phúc lợi xã hội của các nước Bắc Âu được xếp vào hàng cao nhất trên thế giới hiện nay.

Phúc lợi xã hội điển hình của người lao động ở các nước Bắc Âu

Mô hình phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu có hai trụ cột là an sinh xã hội và dịch vụ công (giáo dục, y tế, giao thông công cộng…) với mức độ phổ quát cao (tất cả công dân được đảm bảo các lợi ích và dịch vụ an sinh xã hội cơ bản, bất kể thu nhập, giàu hay nghèo, có việc làm hay không có việc làm), với mức độ bình đẳng cao (phân phối thu nhập tương đối công bằng, giáo dục miễn phí và cơ hội bình đẳng trong tiếp cận việc làm và Chính phủ đảm bảo việc làm thông qua các chính sách thị trường lao động tích cực).[9]

Ở các  nước Bắc Âu, cơ hội việc làm là công bằng và bình đẳng. Tỉ lệ thất nghiệp ở Bắc Âu thấp. Số liệu của OECD năm 2017 cho thấy 77.4% số những người đang độ tuổi lao động có việc làm, trong khi ở các nước nói tiếng Anh là 72.4% và của châu Âu nói chung là 68.9%.[10] Tỉ lệ phụ nữ tham gia lao động và chính trị ở khu vực này luôn cao nhất trên thế giới. Nam giới cũng được nghỉ khi vợ sinh con với thời gian dài nhất thế giới. Mặc dù không quy định trong pháp luật quốc gia về tiền lương tối thiểu, nhưng các thỏa ước tập thể ngành đều quy định về tiền lương tối thiểu ngành. Điều này cho thấy sự linh hoạt của thị trường lao động khi chính sách lao động được điều chỉnh thông qua thỏa ước tập thể thay vì trong pháp luật quốc gia.

Nền giáo dục ở các nước Bắc Âu được miễn phí hoặc trợ cấp cao. Nhà nước dành ngân sách lớn đầu tư cho giáo dục (khoảng 3-8% GDP), khuyến khích người dân học tập suốt đời. Nhà nước miễn phí 100% học phí trong giai đoạn học phổ thông và hỗ trợ học phí học đại học.

Chăm sóc trẻ em rất được quan tâm, thông qua các chính sách hỗ trợ của nhà nước như miễn giảm thuế hoặc trợ cấp bổ sung kéo dài 1 đến vài năm đối với những người đang nuôi con vị thành niên. Nhà nước dành tới 2-3% GDP cho chăm sóc trẻ em, xây dựng hệ thống các nhà trẻ, trường mẫu giáo, trung tâm chăm sóc trẻ nhỏ… giúp các bà mẹ yên tâm tham gia vào thị trường lao động. Tỷ lệ nhập học của học sinh các nước này thuộc nhóm cao nhất thế giới.

Về y tế, các nước Bắc Âu cũng đứng đầu thế giới về hệ thống y tế và bảo hiểm phổ cập và bao trùm, trong đó miễn phí khám chữa bệnh cho trẻ vị thành niên (từ 16 tuổi trở xuống) và phụ nữ có thai. Quỹ bảo hiểm chiếm từ 20-30% GDP của các nước. Tuổi thọ trung bình của người Bắc Âu lên tới 82,3 tuổi. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở mức thấp nhất, chỉ khoảng 3 trẻ/1.000 ca sinh.[11]

Về giao thông công cộng, các nước Bắc Âu áp dụng chính sách trợ giá đối với các phương tiện vận tải đường sắt và xe buýt nội đô. Phần Lan, Thụy Điển có chính sách miễn phí xe buýt và phương tiện vận tải đường sắt nội đô cho trẻ dưới 5 tuổi và người đi cùng.

Quyền hưởng và quyền tham gia

Bình đẳng và tuân thủ là nguyên tắc được đảm bảo ở các nước Bắc Âu. Hiện nay, các nước Bắc Âu có hệ thống pháp luật dân sự thống nhất với chế định ombudsman (người thực thi dân chủ) – tức là có thanh tra viên, nghị sĩ kiểm soát hành chính tư pháp, nhân viên kiểm tra những việc làm của cơ quan nhà nước vi phạm đến quyền lợi của cá nhân. Các ombudsman do Quốc hội bổ nhiệm, được coi là đại diện của cơ quan quyền lực tối cao của đất nước, làm việc độc lập với cơ quan mà chức danh này phải giám sát.  Với chế định này, sự đảm bảo quyền hưởng liên quan tới các phúc lợi theo quy định Nhà nước được đảm bảo tuân thủ rất tốt.

Các nước Bắc Âu áp dụng mô hình dân chủ xã hội – là mô hình có sự tham gia rộng rãi của nhân dân, với bốn giá trị chủ yếu, bao gồm: đối thoại xã hội, lòng tin xã hội, vai trò nhà nước thúc đẩy phát triển và nền giáo dục đề cao dân chủ, hợp tác và bình đẳng. Đối thoại xã hội được thực hiện tốt thông qua đàm phán, tham vấn hoặc đơn giản là trao đổi thông tin giữa đại diện của chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động, trong các vấn đề quan tâm chung liên quan đến chính sách kinh tế và xã hội. Ở Bắc Âu, quan hệ lao động hài hòa, dựa trên bình đẳng, hợp tác và thỏa hiệp. Chia sẻ bình đẳng và tham gia dịch vụ công là biểu hiện nổi bật của quyền công dân, ví dụ: tham gia vào việc xây dựng chính sách công cộng quốc gia, thể hiện quan điểm và ý kiến về chính sách công, phản đối một số chính sách công nếu cho là không phù hợp. Chính phủ lắng nghe những tiếng nói khác nhau từ người dân và xem đó là một sự đảm bảo về ổn định xã hội. Với hệ giá trị trên, khi các quy tắc pháp luật được hình thành thì việc tuân thủ pháp luật là điều tất nhiên.

Một điểm đáng chú ý là mô hình dân chủ xã hội phát triển là nhờ vai trò quan trọng của công đoàn đại diện cho đông đảo người lao động thuộc các lĩnh vực khác nhau trong quá trình ra quyết định liên quan tới các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Tỷ lệ tham gia công đoàn ở Bắc Âu cao nhất trên thế giới. Theo số liệu năm 2016, tỷ lệ tham gia công đoàn ở Nauy là 52%, Phần Lan: 65%, Thụy Điển: 66% và Đan Mạch: 67%, trong khi so với Mỹ chỉ có khoảng 10% tham gia công đoàn và ở hầu hết các nước châu Âu khác, tỷ lệ trung bình là 20-30%.[12] Điểm quan trọng là phần lớn người lao động đều là đối tượng bao phủ của thỏa ước tập thể, lên tới 80-90%.[13]

Sự phát triển dựa trên nguyên tắc phổ quát

Sự phát triển của hệ thống phúc lợi xã hội dành cho người lao động ở các nước Bắc Âu được xây dựng dựa trên hệ thống các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Nauy, Đan Mạch và Thụy Điển là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) từ năm 1919 – năm thành lập ILO; Phần Lan tham gia ILO năm 1920. Vì vậy quá trình hình thành các tiêu chuẩn lao động quốc tế của ILO cũng chính là quá trình hình thành các các tiêu chuẩn lao động ở các nước Bắc Âu. Trong tổng số 189 Công ước cho đến nay, Nauy đã phê chuẩn 110 Công ước; Đan Mạch: 72 ông ước; Thụy Điển: 82 Công ước và Phần Lan: 102 Công ước.

Tuy nhiên, do sự vận động phát triển của đất nước, đặc thù của nền kinh tế, cấu trúc lao động,… các nước Bắc Âu chưa phê chuẩn toàn bộ các Công ước của ILO, nhưng ngay từ đầu đều đã phê chuẩn các công ước cốt lõi (8/8 Công ước) và các công ước quản trị của ILO (4/4 Công ước). Đây là những công ước cơ bản đã được quốc tế công nhận và trở thành các giá trị phổ quát trên thế giới; cho thấy sự tương thích của hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu dựa trên hệ thống tiêu chuẩn lao động phổ quát trên thế giới.

3. Khả năng áp dụng ở Việt Nam

Các chế độ phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu có được là nhờ nền kinh tế phát triển tốt, hệ thống thuế cao và thực thi nghiêm. Do trình độ phát triển của Việt Nam chưa thể ngang bằng với các nước Bắc Âu, các chế độ phúc lợi cụ thể đối với người lao động Việt Nam chỉ có thể xác lập ở mức có thể chấp nhận được và phù hợp với điều kiện Việt Nam. Song, điều quan trọng là cần đảm bảo các quyền hưởng và quyền tham gia của người lao động ở cả cấp vĩ mô và vi mô trong xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội phù hợp, hướng tới hệ thống phúc lợi xã hội dựa trên nguyên tắc phổ quát. Điểm mừng là Việt Nam đang đi đúng hướng trên tinh thần là “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, tham gia và tuân thủ các cam kết và điều ước quốc tế và từng bước cải thiện tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với chuẩn mực quốc tế theo các công ước của Liên Hiệp quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế. Trong bối cảnh thực thi các tiêu chuẩn quốc gia vẫn còn nhiều bất cập và vi phạm diễn ra phổ biến ở Việt Nam, thì điểm quan ngại chính là làm thế nào để thực thi có hiệu quả các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt Nam cam kết để hướng tới mô hình phúc lợi xã hội phổ quát đi liền với mô hình kinh tế thị trường xã hội như con đường của các nước Bắc Âu.

Khuyến nghị với Việt Nam

Việt Nam hiện có chỉ số phát triển con người HDI đứng thứ 116/189 nước, thuộc vào nhóm HDI trung bình trên thế giới. Có thể nói Việt Nam đã đạt được tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao và trở thành nước có thu nhập trung bình từ năm 2009. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng nợ, trốn bảo hiểm xã hội đáng lo ngại, doanh nghiệp bỏ trốn và nợ lương diễn ra khá phổ biến, tỷ lệ đình công tự phát cao,… Hệ số gini, dù chưa phải là quan ngại nhưng cũng có sự gia tăng. Người lao động có việc làm nhưng chất lượng việc làm chưa tốt và họ chưa cảm thấy hạnh phúc. Họ luôn phải chấp nhận làm thêm giờ, hy sinh cân bằng cuộc sống công việc – gia đình, hy sinh các hoạt động giao lưu, xã hội để kiếm sống.

K. Marx viết: “Công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu; công việc của anh ta làm càng phức tạp thì bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới tự nhiên”[14]. Nghe có vẻ thái cực, nhưng nếu nghĩ sâu sa, thì phải chăng chúng ta đang cảm nhận điều đó, ngay cả khi chế độ áp bức, bóc lột và bất công của thời kỳ trước đã bị thủ tiêu.

Hệ thống phúc lợi xã hội bền vững là hệ thống phải theo kịp với sự phát triển của thời đại, nghĩa là “nước nổi, thuyền nổi”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang thấy khoảng cách giàu nghèo giãn rộng, dù chưa phải mức báo động, nhưng là sự cảnh báo cho thấy hệ thống phúc lợi chưa bền vững. Vậy, nguyên nhân là do đâu? Có nghiên cứu đã chỉ ra: “sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn mới chỉ dừng lại ở sự gia tăng và ngày càng hoàn thiện của tư liệu sản xuất, chứ chưa phải là sự phát triển của con người với tư cách một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất.”[15]

Theo K. Marx và F. Engels: “dù tư liệu sản xuất có tăng lên bao nhiêu chăng nữa, ngày càng hiện đại thêm bao nhiêu đi chăng nữa mà người lao động vẫn còn phải chịu cảnh bị bóc lột, áp bức, bất công, nói như C.Mác, lao động của anh ta vẫn chưa phải là lao động tự nguyện, mà là lao động bị cưỡng bức, không phải là sự thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ là một phương tiện để thoả mãn nhu cầu khác.”[16]

Vì vậy, để xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội bền vững hướng tới mô hình của các nước Bắc Âu, Việt Nam cần quan tâm tới một số điểm sau:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu và phê chuẩn các tiêu chuẩn quốc tế liên quan tới phúc lợi xã hội cho người lao động và các quyền trong lao động, hướng tới hệ thống phúc lợi xã hội dựa trên nguyên tắc phổ quát ở Việt Nam.

Thứ hai, đảm bảo các quyền tham gia của người lao động trong quá trình xây dựng hệ thống để đảm bảo tính bền vững của hệ thống liên quan tới các chế độ phúc lợi xã hội có thể chấp nhận được đối với người lao động, từ đó tạo ra một cuộc sống đàng hoàng, tử tế và nhân phẩm cho người lao động.

Thứ ba, hệ thống phúc lợi xã hội chỉ có nghĩa khi được thực thi tốt. Vì vậy, cần tăng cường các biện pháp đảm bảo thực thi hệ thống phúc lợi xã hội hiện có, đảm bảo quyền thụ hưởng của công nhân, viên chức, lao động.

—————————–

Chú thích:

[1] Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, 2000, tr. 790.
[2] Trần Hữu Quang, “Phúc lợi xã hội trên thế giới: quan niệm và phân loại”, tạp chí khoa học xã hội số 4 (128), 2009.
[3] Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu, 1957, tr.137.
[4] Gordon Marshall, 1998, A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press.
[5] Trần Hữu Quang, “Phúc lợi xã hội trên thế giới: quan niệm và phân loại”, tạp chí khoa học xã hội số 4 (128), 2009.
[6] Espring Andersen Gosta (1991), “The Three Worlds of Welfare Capitalism”, Oxford: Policy Press.
Marco Oberrti (1999), “Etat providence (typed’)
Trần Hữu Quang, “Phúc lợi xã hội trên thế giới: quan niệm và phân loại”, tạp chí khoa học xã hội số 4 (128), 2009.
[7] UNDP, Chỉ số phát triển con người 2018.
[8] UN, Báo cáo hạnh phúc thế giới 2019.
[9] Bùi Thanh Sơn và Đinh Toàn Thắng (2019), Mô hình phát triển của một số nước Tây Bắc Âu, Hội đồng lý luận trung ương.
[10] Như trên
[11] Như trên
[12] John Logue (2016), “Trade unions in the Nordic countries”, Aarhus University.
[13] Như trên
[14] C.Mác và Ph.Ăngghen . Sđd., t.42, tr.131.
[15] Nguyễn Minh Hoàn, “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người”, Tạp chí Triết học, số 5 (192), tháng 5, 2007.
[16] C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.132 -133.

Theo HDLL.VN

Tags: